Tiếng Nhật
| |
---|---|
Phân bố địa lý | Nhật Bản |
Phân loại ngôn ngữ học | Nhật Bản
|
Ngữ ngành con | |
Glottolog: | nucl1643[1] |
Bản đồ các phuơng ngữ tiếng Nhật (phía trên đường xám đậm) |
Các phương ngữ của tiếng Nhật chia thành hai nhóm chính, Đông (bao gồm cả Tokyo) và Tây (bao gồm cả Kyoto), với các phương ngữ của Kyushu và đảo Hachijō thường được phân biệt thành các nhánh bổ sung, nhóm sau có lẽ là khác biệt nhất trong tất cả. Các ngôn ngữ Luu Cầu của tỉnh Okinawa và các đảo phía nam của tỉnh Kagoshima tạo thành một nhánh riêng biệt của Ngữ hệ Nhật Bản, và không phải là phương ngữ Nhật Bản, mặc dù đôi khi chúng được gọi như vậy.
Các biến thể khu vực của tiếng Nhật đã được xác nhận kể từ thời tiếng Nhật Thượng đại. Man'yōshū, tập thơ cổ nhất còn tồn tại của Nhật Bản, bao gồm các bài thơ viết bằng phương ngữ của thủ đô (Nara) và đông Nhật Bản, nhưng các phương ngữ khác không được ghi lại. Các đặc điểm được ghi lại của các phương ngữ phía đông hiếm khi được các phương ngữ hiện đại kế thừa, ngoại trừ một vài đảo ngôn ngữ như Đảo Hachijo. Vào thời tiếng Nhật Trung Cổ, chỉ có những ghi chép mơ hồ như "phương ngữ nông thôn là thô". Tuy nhiên, kể từ thời tiếng Nhật Trung thế, các đặc điểm của phương ngữ khu vực đã được ghi lại trong một số cuốn sách, ví dụ như Arte da Lingoa de Iapam, và các đặc điểm được ghi lại khá giống với các phương ngữ hiện đại. Sự đa dạng của các phương ngữ Nhật Bản đã phát triển rõ rệt trong thời kỳ đầu của Nhật Bản hiện đại (thời kỳ Edo) vì nhiều lãnh chúa phong kiến hạn chế việc di chuyển của người dân đến và đi từ các thái ấp khác. Một số điểm phân biệt ngôn ngữ trùng với các biên giới cũ của han, đặc biệt là ở Tohoku và Kyushu. Từ thời Nara đến thời Edo, phương ngữ Kinai (nay là trung tâm Kansai) là hình thức chuẩn thực tế của tiếng Nhật, và phương ngữ của Edo (nay là Tokyo) đã thay thế vào cuối thời Edo.
Với quá trình hiện đại hóa vào cuối thế kỷ 19, chính phủ và giới trí thức đã thúc đẩy việc thiết lập và truyền bá ngôn ngữ chuẩn. Các ngôn ngữ và thổ ngữ trong khu vực bị hạn chế và bị kìm hãm, và do đó, người dân địa phương có cảm giác tự ti về ngôn ngữ "xấu" và "đáng xấu hổ" của họ. Ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Nhật tiêu chuẩn, và một số giáo viên đã áp dụng các hình phạt vì sử dụng các ngôn ngữ không chuẩn, đặc biệt là ở các vùng Okinawa và Tohoku (xem thêm các nhóm ngôn ngữ Lưu Cầu#Lịch sử hiện đại) như vergonha ở Pháp hoặc welsh not ở Anh. Từ những năm 1940 đến những năm 1960, thời kỳ của chủ nghĩa dân tộc Chiêu Hòa và phép màu kinh tế sau chiến tranh, sự thúc đẩy việc thay thế các biến thể trong vùng bằng Tiếng Nhật tiêu chuẩn đã lên đến đỉnh điểm.
Có một số cách tiếp cận nói chung tương tự để phân loại phương ngữ Nhật Bản. Misao Tōjō phân loại phương ngữ lục địa Nhật Bản thành ba nhóm: phương Đông, phương Tây và phương ngữ Kyūshū. Mitsuo Okumura đã phân loại các phương ngữ Kyushu như một lớp phụ của tiếng Nhật phương Tây. Những lý thuyết này chủ yếu dựa trên sự khác biệt ngữ pháp giữa đông và tây, nhưng Haruhiko Kindaichi phân loại tiếng Nhật đại lục thành ba nhóm vòng tròn đồng tâm: bên trong (Kansai, Shikoku, v.v.), giữa (Tây Kantō, Chūbu, Chūgoku, v.v.) và bên ngoài (Đông Kantō, Tōhoku, Izumo, Kyushu, Hachijō, v.v.) dựa trên hệ thống trọng âm, âm vị và cách chia.
Một sự khác biệt chính tồn tại giữa tiếng Nhật phương Đông và phương Tây. Đây là một sự chia rẽ lâu đời xảy ra trong cả ngôn ngữ và văn hóa.[2] Bản đồ trong hộp ở đầu trang này chia hai đường dọc theo âm vị học. Ở phía tây đường phân cách, giọng cao độ kiểu Kansai phức tạp hơn được tìm thấy; về phía đông của đường phân cách, giọng kiểu Tokyo đơn giản hơn được tìm thấy, mặc dù giọng kiểu Tokyo cũng xuất hiện xa hơn về phía tây, ở phía bên kia của Kansai. Tuy nhiên, ranh giới này phần lớn cũng tương ứng với một số khác biệt về ngữ pháp: Phía tây của đẳng âm cao độ:[3]
Mặc dù các đẳng ngữ này gần với đường trọng âm được đưa ra trong bản đồ, nhưng chúng không tuân theo chính xác. Ngoài Đảo Sado, có shinai của phương Đông và da, tất cả các đặc điểm phương Tây đều được tìm thấy ở phía tây của đường cao độ, mặc dù một số đặc điểm phương Đông có thể lại tăng lên về phía tây (da ở San'in, miro ở Kyushu). Tuy nhiên, phía đông của đường phân chia có một khu vực phương ngữ trung gian pha trộn giữa các đặc điểm phương Đông và phương Tây. Phương ngữ Echigo có harōta, mặc dù không phải là miyo, và khoảng một nửa trong số đó cũng có hirōnaru . Ở Gifu, tất cả các đặc điểm phương Tây đều được tìm thấy ngoài giọng cao độ và harōta ; Aichi có miyo và sen, và ở phía tây (phương ngữ Nagoya) cũng có hirōnaru : Những đặc điểm này đủ đáng kể để Toshio Tsuzuku phân loại phương ngữ Gifu-Aichi là tiếng Nhật phương Tây. Tây Shizuoka (phương ngữ Enshū) có miyo là đặc điểm riêng của Tây Nhật Bản.[3]
Phương ngữ Kansai phía Tây Nhật Bản là phương ngữ uy tín khi Kyoto là thủ đô, và các hình thức phương Tây được tìm thấy trong ngôn ngữ văn học cũng như trong các biểu thức kính ngữ của phương ngữ Tokyo hiện đại (do đó là tiếng Nhật tiêu chuẩn), chẳng hạn như ohayō gozaimasu (không phải * ohayaku ), động từ tồn tại để chỉ sự khiêm tốn oru, và để phủ định một cách lịch sự -masen (không phải * -mashinai ).[3]
Phương ngữ Kyushu được phân thành ba nhóm, phương ngữ Hichiku, phương ngữ Hōnichi và phương ngữ Satsugu (Kagoshima), và có một số đặc điểm khác biệt:
Phần lớn phương ngữ Kyushu hoặc thiếu cao độ hoặc có giọng riêng, đặc biệt. Phương ngữ Kagoshima đặc biệt đến nỗi một số người đã xếp nó vào nhánh thứ tư của tiếng Nhật, cùng với phương Đông, phương Tây và phần còn lại của Kyushu.
Một nhóm nhỏ phương ngữ được nói ở Hachijō-jima và Aogashima, các hòn đảo phía nam Tokyo, cũng như quần đảo Daitō ở phía đông Okinawa. Phương ngữ Hachijō khá khác biệt và đôi khi được cho là một nhánh chính của tiếng Nhật. Nó vẫn giữ được vô số những nét cổ xưa được thừa hưởng của phương Đông Nhật Bản.
Mối quan hệ giữa các phương ngữ được ước tính trong biểu đồ sau:[4]
Tiếng Nhật |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||