Canthidermis macrolepis

Canthidermis macrolepis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Tetraodontiformes
Họ (familia)Balistidae
Chi (genus)Canthidermis
Loài (species)C. macrolepis
Danh pháp hai phần
Canthidermis macrolepis
(Boulenger, 1888)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Balistes macrolepis Boulenger, 1888
    • Canthidermis villosus Fedoryako, 1979

Canthidermis macrolepis là một loài cá biển thuộc chi Canthidermis trong họ Cá bò da. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1888.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh macrolepis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: makrós (μακρός, “dài, to”) và lepís (λεπῐ́ς, “vảy”), hàm ý đề cập đến lớp vảy to ở thân sau và đuôi của loài cá này.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. macrolepis ban đầu chỉ được ghi nhận ở phía tây bắc Ấn Độ Dương, giới hạn từ Biển Đỏ đến biển Ả Rập.[2] Mãi đến năm 2019, C. macrolepis lần đầu tiên được phát hiện tại Thái Bình Dương, khi loài này được xác định dựa trên mã vạch DNA tại quần đảo Đông Sa (Biển Đông), đế ndnăm 2020 thì C. macrolepis được xác nhận là đã mở rộng phạm vi về phía bắc đến Nam Nhật Bản (vùng phía nam đảo Honshu và đảo Shikoku) và Micronesia (một mẫu vật được thu thập ở khoảng giữa phía bắc Liên bang Micronesia và phía đông quần đảo Mariana).[3]

C. macrolepiscá biển khơi, nhưng đến mùa sinh sản thì bơi về vùng nước nông để đẻ trứng.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. macrolepis là 60 cm.[4] Thân của C. macrolepis có màu xám nâu, nhạt hơn ở phần ngực và bụng. Vây lưng sau và vây hậu môn vươn cao ở trước, có viền đen. Vây đuôi màu đen, bo tròn ở cá con, phát triển thêm hai thùy nhọn kih trưởng thành. Vây ngực màu đen.

Số gai ở vây lưng: 3; Số tia vây ở vây lưng: 23–27; Số gai ở vây hậu môn: 0; Số tia vây ở vây hậu môn: 21–24; Số tia vây ở vây ngực: 14–16.[2][3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Christopher Scharpf biên tập (2022). “Order Tetraodontiformes (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  2. ^ a b c Randall, John E. (1995). Coastal Fishes of Oman. Đại học Hawaii. tr. 393. ISBN 978-0-8248-1808-1.
  3. ^ a b Matsunuma, Mizuki; Ikeguchi, Shinichirou; Kai, Yoshiaki (2020). “First Specimen-based Records of Canthidermis macrolepis (Tetraodontiformes: Balistidae) from the Pacific Ocean and Comparisons with C. maculata (PDF). Species Diversity. 25 (2): 135–144. doi:10.12782/specdiv.25.135.
  4. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Canthidermis macrolepis trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Một ma thần chưa rõ danh tính đang ngủ say tại quần đảo Inazuma
Một ma thần chưa rõ danh tính đang ngủ say tại quần đảo Inazuma
Giai đoạn Orobashi tiến về biển sâu là vào khoảng hơn 2000 năm trước so với cốt truyện chính, cũng là lúc Chiến Tranh Ma Thần sắp đi đến hồi kết.
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Khi Truth và Illusion tạo ra Goblin Slayer, số skill points của GS bình thường, không trội cũng không kém, chỉ số Vitality (sức khỏe) tốt, không bệnh tật, không di chứng, hay có vấn đề về sức khỏe
Đấng tối cao Nishikienrai - Overlord
Đấng tối cao Nishikienrai - Overlord
Nishikienrai chủng tộc dị hình dạng Half-Golem Ainz lưu ý là do anh sử dụng vật phẩm Ligaments để có 1 nửa là yêu tinh nên có sức mạnh rất đáng kinh ngạc
Nhân vật Ichika Amasawa - Youkoso Jitsuryoku Shijou Shugi no Kyoushitsu e
Nhân vật Ichika Amasawa - Youkoso Jitsuryoku Shijou Shugi no Kyoushitsu e
Ichika Amasawa (天あま沢さわ 一いち夏か, Amasawa Ichika) là một trong những học sinh năm nhất của Trường Cao Trung Nâng cao.