Centrolabrus | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Labriformes |
Họ (familia) | Labridae |
Chi (genus) | Centrolabrus Günther, 1861 |
Loài điển hình | |
Labrus exoletus Linnaeus, 1758 | |
Các loài | |
2 loài, xem trong bài |
Centrolabrus là một chi cá biển thuộc họ Cá bàng chài. Tất cả các loài trong chi này đều được tìm thấy ở Đông Đại Tây Dương.
Tiền tố centro trong từ định danh bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "gai, ngạnh", không rõ hàm ý đề cập đến điều gì, có lẽ chỉ đến các gai ở vây lưng hoặc vây hậu môn, còn Labrus ở phần hậu tố là tên gọi của chi điển hình trong họ Cá bàng chài[1].
Có hai loài được công nhận là hợp lệ trong chi này, bao gồm[2]:
Trước đây, chi Centrolabrus bao gồm 3 loài, là C. caeruleus, C. exoletus và C. trutta. Theo quan sát và ghi nhận, cá đực của hai loài trong số đó là C. caeruleus và C. trutta lại có hành vi dựng tổ để cho cá cái đẻ trứng, và trứng được chăm sóc và bảo vệ bởi cá đực. Những tập tính này giống với hầu hết các loài trong chi Symphodus. Trong khi đó, những tập tính này lại không được quan sát ở C. exoletus[3].
Ngoài ra, một phát hiện đáng chú ý là S. melanocercus khi đó lại là loài duy nhất trong chi Symphodus mà cá đực không có hành vi dựng tổ, cũng như việc cá đực không chăm sóc trứng của chính nó; điều này lại giống với C. exoletus[3]. Một điểm tương đồng giữa S. melanocercus và C. exoletus là hành vi "làm vệ sinh" cho những loài cá khác. C. exoletus thậm chí còn làm vệ sinh cho cả S. melanocercus[3].
Bên cạnh sự khác biệt về tập tính, những loài đã đề cập ở trên cũng có sự khác biệt về bộ gen. Kết quả phân tích vùng gen 16S rDNA cho thấy, C. caeruleus và C. trutta hình thành một nhóm đơn ngành với nhiều loài trong chi Symphodus, còn S. melanocercus lại hợp thành nhóm với C. exoletus[3].