Centrolabrus exoletus

Centrolabrus exoletus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Centrolabrus
Loài (species)C. exoletus
Danh pháp hai phần
Centrolabrus exoletus
(Linnaeus, 1758)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Labrus exoletus Linnaeus, 1758
  • Labrus chinensis Linnaeus, 1758
  • Labrus pentacanthus Lacepède, 1801
  • Crenilabrus microstoma Thompson, 1837

Centrolabrus exoletus, tên thông thường trong tiếng Anhrock cook, là một loài cá biển thuộc chi Centrolabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh exoletus trong tiếng Latinh có nghĩa là "cổ xưa", không rõ hàm ý đề cập đến điều gì[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. exoletus là một loài bản địa của vùng biển của Đông Bắc Đại Tây Dương. Loài này có phạm vi trải dài từ bờ biển Na Uy về phía nam đến Bồ Đào Nha, bao gồm Biển Bắc (xa nhất là đến eo biển Skagerrak) và toàn bộ vùng biển bao quanh AnhIreland; ở Địa Trung Hải, C. exoletus được ghi nhận tại Málaga, phía nam Tây Ban Nha[1]. Trước đây, C. exoletus được ghi nhận là xuất hiện ở vùng biển Greenland, mặc dù chưa được xác nhận nhưng sau đó đã bị loại khỏi danh sách về các loài cá ở Greenland[1].

C. exoletus sống gần những rạn đá phủ rong biển và trong các thảm cỏ biển ở độ sâu đến ít nhất là 35 m[1].

C. exoletus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 18 cm[3]. Lưng có màu nâu sẫm, chuyển dần thành màu vàng ở hai bên thân, và ánh màu bạc ở ngực. Nhiều cá thể có một dải sọc ngang màu vàng kim ở giữa thân. Vây lưng và vây hậu môn có dải vàng. Các vây có màu vàng nâu. Đầu có các vệt sọc màu xanh lam[4].

Số gai ở vây lưng: 18–20; Số tia vây ở vây lưng: 5–7; Số gai ở vây hậu môn: 4–6; Số tia vây ở vây hậu môn: 6–8; Số tia vây ở vây ngực: 14[3][4].

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. exoletus là những loài thủy sinh không xương sống, đặc biệt là các loài động vật giáp xác[3]. Mùa sinh sản của C. exoletus diễn ra vào mùa hè. Cá cái đẻ trứng lên một thảm tảo biển trong lãnh thổ của cá đực; trứng không được cá bố chăm sóc như những loài Symphodus.

C. exoletus có hành vi dọn vệ sinh cho những loài cá khác nên được chọn nuôi chung với cá hồi Đại Tây Dương để kiểm soát các loài ký sinh trên cá hồi[3].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d M. T. Craig; D. Pollard; M. Liu (2015). Centrolabrus exoletus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2015: e.T187803A44907138. doi:10.2305/IUCN.UK.2015-1.RLTS.T187803A44907138.en. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c d Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Centrolabrus exoletus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b Francis Day (1884). The Fishes of Great Britain and Ireland, Tập 1. Nhà xuất bản Williams and Norgate. tr. 264.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan