C. kleinii thường sống tập trung ở những khu vực mà san hô phát triển phong phú trên các rạn viền bờ và đầm phá, có khi ở những khu vực có nền đáy cát,[1] độ sâu được tìm thấy có thể lên đến 122 m.[10]
C. kleinii có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 15 cm.[11] Loài này có hai sọc trắng dày ở thân trước, cách nhau bởi một dải sọc nâu, phần thân sau chuyển sang màu vàng nâu (bao gồm cả vây lưng và vây hậu môn). Dọc hai bên thân có những hàng chấm sáng màu. Đầu có một sọc đen từ gáy băng dọc qua mắt (dải phía trên mắt có màu xanh lam ở con trưởng thành). Cuống đuôi có vạch trắng; vây đuôi màu vàng (rìa sau trong suốt). Vây bụng sẫm màu. Vây ngực trong suốt. Vây lưng và vây hậu môn có một dải viền trắng xanh ở rìa, phía trong có một viền mảnh màu đen.
Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 20–23; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–20; Số tia vây ở vây ngực: 13–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 33–41.[12]
Những cá thể mang kiểu màu trung gian giữa C. kleinii với Chaetodon unimaculatus, một loài chị em cùng phân chi Lepidochaetodon, đã được bắt gặp trong tự nhiên.[14]
C. kleinii là một loài thường được xuất khẩu trong ngành thương mại cá cảnh.[15] Khoảng 7.000 con C. kleinii được giao dịch trong giai đoạn từ năm 1988 đến 2002.[1]
^Hobbs, J-P.A.; van Herwerden, L.; Pratchett, M. S. & Allen, G. R. (2013). “Hybridisation Among Butterflyfishes”(PDF). Trong Pratchett, M. S.; Berumen, M. L. & Kapoor, B. (biên tập). Biology of Butterflyfishes. Boca Raton, Florida: CRC Press. tr. 48–69.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Qua chương 1080 thì ta biết thêm được về SWORD, về cơ bản thì họ là đội biệt kích đặc biệt gồm những Hải Quân đã từ bỏ Quân Tịch nhưng vẫn hoạt động với vai trò là 1 Hải Quân