Charli XCX

Charli XCX
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhCharlotte Emma Aitchison
Sinh2 tháng 8, 1992 (32 tuổi)
Cambridge, Anh
Nguyên quánStart Hill, Essex, Anh
Thể loại
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • Nhạc sĩ
Năm hoạt động2008 đến nay
Hãng đĩa
Websitecharlixcx.com

Charlotte Emma Aitchison (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1992), được biết đến với nghệ danh Charli XCX hay Charli xcx là một ca sĩnhạc sĩ người Anh. Cô sinh ra ở Cambridge và lớn lên tại Start Hill, Essex. Charli bắt đầu đăng tải những bài hát của mình lên Myspace vào năm 2008, điều này giúp cô được mời đi biểu diễn ở các buổi tiệc quẩy. Ban đầu khi đã biểu diễn ở Luân Đôn, cô đã ký hợp đồng với Asylum Records vào năm 2010 và phát hành một số đĩa đơn và hai mixtape vào năm 2011 và 2012, "Heartbreaks and Earthquakes" và "Super Ultra".

Năm 2012, Charli XCX trở nên nổi tiếng sau khi hợp tác với Icona Pop với đĩa đơn "I Love It" . Vào tháng 4 năm 2013, XCX phát hành album đầu tiên của cô, True Romance; bao gồm một số đĩa đơn đã được phát hành trước đó, kể cả "Nuclear Seasons" đã được phát hành vào năm 2011, và "You're the One", được phát hành dưới Warner Music vào năm 2012.

Sau đó, XCX đã hát chính cho hai single là "I Love It" (2013) và "Fancy" (Iggy Azalea) (2014), cả hai đều được cô đồng sáng tác. Đĩa đơn năm 2014 của cô "Boom Clap" từ album soundtrack của The Fault in Our Stars đã được xếp trong nhóm 10 đĩa đơn hàng đầu trên toàn thế giới. Nó cũng trước khi phát hành album thứ hai của cô, Sucker, trong đó có các đĩa đơn "Doing It" và "Famous".

Năm 2016, cô phát hành đĩa mở rộng Vroom Vroom mở rộng và ca khúc "After the Afterparty", bản gốc duy nhất từ ​​album studio đầy đủ thứ ba sắp tới của cô. Năm 2017, cô phát hành mixtape Number 1 Angel và single chính thức "Boys", trở thành Anh đứng thứ 7 trong Top 40.[1][2][3] Cuối năm đó, cô phát hành mixtape Pop 2.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Charlotte Emma Aitchison sinh ngày 02 tháng 8 năm 1992 ở Cambridge,[4] con gái của một người đàn ông Scotland tên là Jon Aitchison, và một người mẹ gốc Ấn Độ là bà Shameera, người có quê gốc từ Uganda. Bố cô là một doanh nhân và là cựu nhân viên đặt vé biểu diễn, trong khi mẹ cô là một cựu y tá và tiếp viên hàng không. Aitchison lớn lên tại Start Hill, Essex,[5][6][7] và theo học Cao đẳng Bishop's Stortford trong vùng lân cận Stortford Bishop, mặc dù cô bở học lúc vào năm hai vào năm 2010.[8] Cô cũng học tại Trường Mỹ thuật UCL's Slade ở London, nhưng đã bỏ học vào năm thứ hai của khoá học.[9] Cô bộc lộ sự thích thú của mình đối với âm nhạc từ nhỏ, và bắt đầu viết nhạc từ năm 14 tuổi.[10]

Sự nghiệp âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

2008–2013: Các buổi biểu diễn và các đĩa đơn đầu tiên.

[sửa | sửa mã nguồn]

Aitchison bắt đầu viết nhạc khi mới 14 tuổi[11][12] và bắt đầu thu âm một album với khoản vay do cha mẹ cô đứng tên. Vào đầu năm 2008, cô đã bắt đầu đăng các bài hát từ album, cũng như nhiều bản demo khác, trên trang MySpace chính thức của cô. Điều này đã thu hút sự chú ý của một nhà tổ chức nhiều bữa tiệc và lễ hội nhạc quẩy trong giới nghệ sĩ ở đông London, và ông đã mời cô biểu diễn.[13][14] Aitchison được đưa vào các tờ bướm quảng cáo dưới nghệ danh sân khấu Charli XCX, tên hiệu MSN Messenger của cô khi cô còn nhỏ.[15] Mặc dù các buổi biểu diễn rất bất hợp pháp, cha mẹ cô vẫn ủng hộ sự nghiệp của Charli và tham dự nhiều buổi tiệc quẩy cùng cô.[16] Cô phát hành hai đĩa đơn, "Franchesckaar!" và đĩa đôi A-side "Emelline" / "Art Bitch" vào cuối năm 2008 dưới hãng Orgy Music. Album mà cô thu âm vào thời điểm này, 14 (trong đó có single cũ), chưa bao giờ được phát hành thương mại, mặc dù đã có một số bản quảng cáo được phát hành và các bản sao được phát đi trong buổi biểu diễn sớm nhất của cô.[17] Từ đó, Charli thường xuyên bộc lộ lòng không ưa thích đối với các sáng tác âm nhạc của mình vào thời điểm đó và gọi nó là "nhạc MySpace dở tệ cực kỳ".[18][19] Vào năm 18 tuổi, cô chuyển đến Luân Đôn để học bằng cử nhân mỹ thuật ở trường Mỹ thuật UCL's Slade, nhưng bỏ học trong năm thứ hai.

Charli ký kết với Asylum Records vào năm 2010. Về sau, cô miêu tả khoảng thời gian này như bị "lạc lối". Trong một buổi phỏng vấn với The Guardian, Charli XCX trả lời, "Lúc đó tôi vẫn còn đi học. Tôi vừa đến từ văn hóa nhạc quẩy, và tôi chưa thật sự biết điều đó có nghĩa gì với mình. Và khi ký hợp đồng, tôi ghét nhạc pop; lúc đó tôi muốn sáng tác nhạc rap. Tôi chẳng biết mình là ai. Tôi còn không biết mình đã thích những gì. Mặc dù tôi đã được ký hợp đồng, tôi vẫn suy nghĩ thêm về bản thân mình." Sau đó, Charli đi đến Los Angeles để gặp một số nhà sản xuất âm nhạc nhưng nhận ra rằng "việc đó không giúp ích gì" cho đến khi cô gặp nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ Ariel Rechtshaid. Họ làm việc trong 2 tiếng và soạn lời cho bài hát "Stay Away." Cô cho biết "đó là lúc mọi thứ bắt đầu trở nên hoàn chỉnh."[20][21] Đầu năm 2011, Alex Metric phát hành đĩa đơn "End of the World" với xướng âm của cô. Lúc này Charli XCX rời bỏ năm hai ở trường Mỹ thuật UCL's Stade để tập trung vào sự nghiệp nhạc sỹ của mình.[22][23] Tháng 5 năm 2011, cô phát hành đĩa đơn "Stay Away", tiếp theo là " Nuclear Seasons " vào tháng 11. Cả hai bài hát đều do Ariel Rechtshaid sản xuất và phát hành độc quyền tại Anh. Đĩa đơn đã thu hút sự chú ý của trang web âm nhạc Pitchfork Media, nơi cô giành được giải thưởng "Đĩa đơn mới hay nhất" cho cả hai; "Stay Away" đã được bình chọn là Đĩa đơn hay nhất năm 2011 của trang web này.[24] Tháng 5 năm 2012, Charli XCX phát hành mixtape đầu tiên bao gồm tám bài hát.[25] Cô đã hỗ trợ Santigold và Coldplay trong chuyến lưu diễn trong năm đó.[26] Bản mixtape thứ hai của cô, Super Ultra, đã được phát hành độc quyền thông qua trang web của cô vào tháng 11 năm 2012.[27]

Ngoài ra, cô còn bắt đầu hợp tác với nhà sản xuất âm nhạc người Thụy Điển Patrik Berger. Anh gửi cho Charli XCX hai tiết tấu, và cô nhanh chóng soạn lời cho cả hai, một trong số đó về sau trở thanh "I Love It" và bài hát còn lại trở thành "You're the One."[28] Cô cho biết mình đã không tự mình phát hành "I Love It" bởi vì cô không thấy nó phù hợp với dòng nhạc của bản thân,[29] nhưng vào năm 2012, bộ đôi người Thụy Điển Icona Pop thu âm lại bài hát này và phát hành nó dưới dạng đĩa đơn với xướng âm của Charli. Bài hát này trở thành một bản hit toàn cầu, đạt được hạng 1 ở Anh Quốc và hạng 7 trên Billboard 100 vào năm 2013.[30][31] Vào tháng 6, Charli XCX phát hành đĩa đơn "You're the One" thuộc đĩa mở rộng cùng tên, và sau đó mixtape đầu tiên Heartbreaks and Earthquakes, một file đơn độc chưa cùng lúc cả tám bài hát, bao gồm bản cover của bài hát "Champagne Coast" của Blood Orange và bản remix bài "You're the One" của Odd Future.[32][33][34] Vào dịp Halloween, cô phát hành bài hát "Cloud Aura" với xướng âm của Brooke Candy,[35] tiếp nối bởi mixtape thứ hai Super Ultra, được phát hành độc quyền qua trang web riêng của Charli vào tháng 11.[36][37][38] Vào đầu năm 2013, cô phát hành "You (Ha Ha Ha)" và thông báo về album đầu tay của mình,[39] và sau đó phát hành "What I Like" vào tháng 3 năm 2013.[40] Album đầu tay True Romance của cô được phát hành vào tháng 4 năm 2013, đạt được hạng 85 trên UK Albums Chart,[41] hạng 5 trên US Billboard Top Heartseekers, và hạng 11 trên Australian Hitseekers Albums Chart.[42] Album này được đánh giá cao bởi các nhà phê bình, nhận được 76/100 trên Metacritic.[43] Vào tháng 5, Charli phát hành "Just Desserts", bài hát này được thu âm với nhạc sỹ người Wales Marina Diasmandis.[44]

2013–2015: Nổi tiếng và Sucker

[sửa | sửa mã nguồn]

Charli XCX bắt đầu viết album thứ hai của mình từ giữa năm 2013, về sau cô cho biết dự định ban đầu sẽ thu âm nó ở Ấn Độ, nhưng sau đó cô muốn thu âm nó ở Pháp. Cô cho biết: "Hai tháng trước, tối muốn đến Ấn Độ để thu âm album này, và giờ tối muốn thu âm nó ở Pháp. Nên tôi cảm thấy không có điều gì chắc chắn cả, tôi hiện đang cảm thấy rất tùm lum tá lả. Nhưng bây giờ, tôi rất quyết tâm về việc đi đến Pháp để thu âm nó, nhưng điều đó đã khác so với hai tháng trước, nên ai mà biết chuyện gì sẽ xảy ra?"[45] Bất mãn với ngành âm nhạc, cuối cùng cô đã đến Thụy Điển, cách ly bản thân mình với hãng thu âm và sáng tác một album lấy cảm hứng từ thể loại nhạc punk trong vòng một tháng. Cô hợp tác với Patrik Berger và hoàn thành album này một cách nhanh chóng, nhưng về sau nó bị hủy bỏ để sáng tác một album tập trung thiên hướng nhạc pop.[46][47] Album này có bài hát mang tên "Mow That Lawn" và được trình diễn lần đầu tiên tại Lễ hội Ilosaarirock tại Phần Lan.[48]

Cuối năm 2013, "SuperLove" được phát hành dưới dạng đĩa đơn cho album thứ hai của Charli XCX[49] và đạt hạng 62 trên UK Singles Chart, trở thành đơn ca đầu tiên của cô vào bảng xếp hạng. [50] Vào tháng 1 năm 2014, cô phát hành ca khúc "Allergic To Love" trên nền tảng SoundCloud. [51] Trong khi đang soạn lời cho album, cô hợp tác với Rivers Cuomo đến từ ban nhạc Weezers, Rostam Batmanglij từ Vampire Weekend, bộ đội sản xuất nhạc Stargate, nhà sản xuất nhạc John Hill và Dr. Luke nhưng cô cho biết "họ không phù hợp với tôi". Trong một buổi phỏng vấn với tạp chí DIY, cô cho biết mình đã sáng tác một bản ghi âm cho nữ giới và muốn họ cảm thấy "một cảm giác được trao quyền".[52] Charli tiết lộ trong nhật ký tour của mình với Replay Laserblast rằng thể loại của album này là pop nhưng có tính la hét và sức mạnh của phái nữ.[53] Album này được truyền cảm hứng từ các nhóm nhạc the Hives, Weezer, Ramones, Bow Wow Wow, và thể loại nhạc yé-yé ở thập niên 1960.[54] Bài hát "SuperLove" về sau bị loại bỏ khỏi album này.

Đầu năm 2014, Charli XCX góp mặt trên đĩa đơn "Fancy" của nữ rapper người Úc Iggy Azalea. Ca khúc nhanh chóng vươn lên vị trí số một trên US Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn đầu tiên của hai ca sĩ đứng ở vị trí đầu bảng. Charli tiếp tục viết cho các bài hát như "Beg For It" (Iggy Azalea), "OctaHate" (Ryn Weaver), cũng như các sản phẩm âm nhạc của Sky Ferreira, Neon Jungle, RihannaGwen Stefani. Giữa năm 2014, Charli XCX phát hành ca khúc "Boom Clap" cho album nhạc phim The Fault in Our Stars. Bài hát nhanh chóng trở thành một bản hit, vươn đến vị trí thứ tám trên Billboard Hot 100, và được chứng nhận bạch kim tại Úc. Vào tháng 8, cô công bố album phòng thu tiếp theo của mình mang tên Sucker, dự kiến phát hành vào tháng 10, cùng với đĩa đơn mở đầu "Break the Rules". Cô chia sẻ rằng, album này "hiển nhiên là [...] về việc đếch cần quan tâm". Tuy nhiên, lịch phát hành album đã bị lùi lại trước sự thành công của "Boom Clap". Cuối cùng, Sucker được ra mắt vào tháng 12 năm 2014 tại Bắc Mỹ và  tháng 2 năm 2015 tại châu Âu. Album debut ở vị trí thứ 28 trên bảng xếp hạng US Billboard 200, và ở vị trí thứ 15 trên UK Albums Chart. Đĩa đơn thứ ba của album, Doing It, hợp tác với nữ ca sĩ người Anh Rita Ora, được phát hành vào tháng 2 năm 2015 và đứng ở vị trí thứ tám trên UK Singles Chart.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Charli XCX Singles Albums”. officialcharts.com. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2017.
  2. ^ DeVille, Chris (ngày 27 tháng 7 năm 2017). “So Is Charli XCX's Album Gonna Come Out Soon Or What”. stereogum.com. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2017.
  3. ^ Richards, Will (ngày 25 tháng 7 năm 2017). “CHARLI XCX TO RELEASE NEW SINGLE 'BOYS' TOMORROW!”. diymag.com. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2017.
  4. ^ “Fancy that! Charli XCX shows off her bottom as she takes to the stage in a cheerleading ensemble for her raunchy performance at the Jingle Ball Jam”. Daily Mail. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  5. ^ Dove, Rachel. “Charli XCX interview: 'I realised that I just wanted to be a fing boss'. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2017.
  6. ^ This Week's Fresh Music Top 20. 4Music. ngày 15 tháng 4 năm 2014.
  7. ^ Tinkham, Chris (ngày 12 tháng 9 năm 2013). “Charli XCX This Is Me”. undertheradarmag.com. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2014.
  8. ^ “A post from ngày 2 tháng 7 năm 2013 on the Old Stortfordian Society's Facebook page”. Facebook. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.[cần nguồn thứ cấp]
  9. ^ “Quirky Charli XCX has worked hard to earn her spot in the limelight”. The Sydney Morning Herald.
  10. ^ “Brit Pop Girls - Page - Interview Magazine”. web.archive.org. 28 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  11. ^ Needham, Alex (ngày 27 tháng 7 năm 2009). “Brit Pop Girls”. Interview. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  12. ^ “Charli XCX interview (part 1)”. FaceCulture. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2013.
  13. ^ “Interview with Charli XCX”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  14. ^ Chris Tinkham (ngày 12 tháng 9 năm 2013). “Charli XCX – This Is Me”. Under the Radar. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2014.
  15. ^ “Charli XCX explains "XCX" – On Air with Ryan Seacrest”. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014 – qua YouTube.
  16. ^ Nika, Colleen. “Dark Star Rising: Charli XCX Talks Rave Roots and Her Colorful Future”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  17. ^ “Interview: Charli XCX Talks Debut Album, Internet Haters, and Writing Icona Pop's "I Love It". Complex. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  18. ^ “Interview: Charli XCX : Moustache Magazine”. web.archive.org. 25 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  19. ^ “Radar Band Of The Week - Charli XCX - NME”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ “How Charli XCX grafted her way to the cusp of pop stardom | Music | The Guardian”. web.archive.org. 6 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  21. ^ “Charli XCX: This Is Me - Interview with Charlotte Aitchison | Under the Radar - Music Magazine”. web.archive.org. 23 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  22. ^ “Quirky Charli XCX has worked hard to earn her spot in the limelight”. web.archive.org. 12 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  23. ^ “CHARLI XCX | THE LAST MAGAZINE”. web.archive.org. 10 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  24. ^ “Pitchfork – The Best Songs of 2011”. Pitchfork. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  25. ^ “Announcing Charli XCX's EP & Tour Dates”. Iamsoundrecords.com. ngày 22 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  26. ^ “Rita Ora on Coldplay Support Slots: "It's Such A Huge Opportunity" – Audio”. Capital FM. ngày 9 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  27. ^ “Charli XCX – Super Ultra”. Pitchfork. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  28. ^ “Interview: Charli XCX Talks Debut Album, Internet Haters, and Writing Icona Pop's "I Love It" | Complex”. web.archive.org. 22 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  29. ^ “BBC News - Charli XCX: Pop, punk and synaesthesia”. web.archive.org. 16 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  30. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. web.archive.org. 23 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  31. ^ “Icona Pop | Billboard”. web.archive.org. 23 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  32. ^ “Download Charli XCX Heartbreaks And Earthquakes Mixtape - Stereogum”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  33. ^ “Download Charli XCX's Heartbreaks and Earthquakes Mixtape | The FADER”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  34. ^ “Charli XCX Takes on Drake/Jai Paul, Blood Diamonds, Blood Orange, More on New Mixtape | Pitchfork”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  35. ^ “Charli XCX – "Cloud Aura" (Feat. Brooke Candy) - Stereogum”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  36. ^ “Download Charli XCX's Super Ultra Mixtape | Pitchfork”. web.archive.org. 28 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  37. ^ “Charli XCX: "Super Ultra" (Mixtape) - Noisey”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  38. ^ “Download Charli XCX Super Ultra Mixtape - Stereogum”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  39. ^ “Charli XCX Announces Debut Album, True Romance | Pitchfork”. web.archive.org. 12 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  40. ^ “Charli XCX – "What I Like" - Stereogum”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  41. ^ “Official UK Albums Top 100 - 30th March 2013 | Official UK Top 40 | music charts | Official Albums Chart”. web.archive.org. 27 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  42. ^ “Heatseekers Albums : May 04, 2013 | Billboard Chart Archive”. web.archive.org. 14 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  43. ^ “Critic Reviews for True Romance - Metacritic”. web.archive.org. 19 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  44. ^ “Listen/Download: New Track From Charli XCX and Marina and the Diamonds, "Just Desserts" | Pitchfork”. web.archive.org. 11 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  45. ^ “Charli XCX Already Writing New Music For Second Album | Billboard”. web.archive.org. 12 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  46. ^ “Charli XCX Talks Next LP: 'It's Shouty, Raw, Like 'RAAAAA!" | SPIN”. web.archive.org. 12 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  47. ^ “An amazing Charli XCX interview-slash-chat • Popjustice”. web.archive.org. 21 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  48. ^ “Charli XCX Plays Track From Lost Punk Album at Finnish Festival | SPIN”. web.archive.org. 12 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  49. ^ “Charli XCX Previews Second Album with 'SuperLove' Single: Watch Video | Billboard”. web.archive.org. 5 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  50. ^ “Search | Official Charts”. www.officialcharts.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.
  51. ^ “Listen: Charli XCX: "Allergic to Love" | Pitchfork”. web.archive.org. 12 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  52. ^ “Charli XCX in the studio interview | Features | DIY”. web.archive.org. 12 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  53. ^ “CHARLI XCX Tour Diary - EPISODE #1 - STOCKHOLM #LASERCLUB - YouTube”. web.archive.org. 9 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  54. ^ “Charli XCX New Album”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Long Chủng và Slime trong Tensura sự bình đẳng bất bình thường.
Long Chủng và Slime trong Tensura sự bình đẳng bất bình thường.
Những cá thể độc tôn mạnh mẽ nhất trong Tensura, hiện nay có tổng cộng 4 Long Chủng được xác nhận
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Một số thông tin về Thất sắc Thủy tổ và Ác ma tộc [Demon] Tensura
Trong thế giới chuyến sinh thành slime các ác ma , thiên thần và tinh linh là những rạng tồn tại bí ẩn với sức mạnh không thể đong đếm
Bạn có đồng cảm với nhân vật Thanos trong Avengers: Endgame không?
Bạn có đồng cảm với nhân vật Thanos trong Avengers: Endgame không?
[Zhihu] Bạn có đồng cảm với nhân vật Thanos trong Avengers: Endgame (2019) không?
Guide trang bị trong Postknight
Guide trang bị trong Postknight
Trang bị là các item thiết yếu trong quá trình chiến đấu, giúp tăng các chỉ số phòng ngự và tấn công cho nhân vật