Quân chính quy Anh: 347.000 Lực lượng thuộc địa: 103.000–153.000 Lực lượng hỗ trợ Nam Phi da đen: 100.000 [1]
Boer Commandos: Boer Transvaal 25.000 Free State Boers 15.000 Boer Cape Lực lượng hỗ trợ Boer da đen: 10.000 [2] Tình nguyện viên nước ngoài: 5.400+[5]
Quân nhân thương vong: 6.189 người chết [d] 24.000 tù binh Boer bị chuyển ra nước ngoài; [5] 21.256 bitter-enders đầu hàng vào cuối chiến tranh;[6]
Thương vong thường dân: 46.370 người, trong đó có 26.370 phụ nữ và trẻ em người Boer chết trong các trại tập trung,[7] cùng với 20.000+ người Phi da đen[7] trong số 115.000 người tập trung ở các trại tập trung riêng biệt[cần dẫn nguồn]
Chiến tranh Boer thứ hai (tiếng Hà Lan: Tweede Boerenoorlog, tiếng Afrikaans: Tweede Vryheidsoorlog, "Chiến tranh tự do thứ nhì"), được biết đến nhiều hơn với tên gọi Chiến tranh Boer, Chiến tranh Anh-Boer, Chiến tranh Nam Phi hoặc Chiến tranh Nam Phi Anh-Boer, bắt đầu vào ngày 11 tháng 10 năm 1899 và kết thúc vào ngày 31 tháng 5 năm 1902. Anh đánh bại hai nhà nước Boer ở Nam Phi: Cộng hòa Nam Phi (Cộng hòa Transvaal) và Nhà nước Tự do Orange. Anh được sự hỗ trợ của Thuộc địa Cape, Thuộc địa Natal và một số đồng minh châu Phi. Các nỗ lực chiến tranh của Anh được hỗ trợ thêm bởi các tình nguyện viên từ đế quốc Anh, bao gồm Nam Phi, thuộc địa của Úc, Canada, Ấn Độ và New Zealand. Tất cả các nước khác đều có tính trung lập, nhưng ý kiến của họ phần lớn là thù địch với Anh Quốc. Bên trong Anh Quốc và Đế quốc của cũng có sự phản đối đáng kể đối với Chiến tranh Boer thứ hai.
Nước Anh quá tự tin và không có sự chuẩn bị trước.[8] Người Boers đã được trang bị vũ khí và tấn công đầu tiên, bao vây Ladysmith, Kimberley, và Mafeking vào đầu năm 1900, và chiến thắng các trận đánh quan trọng tại Colenso, Magersfontein và Stormberg. Bị chao đảo, Anh Quốc mang một số lượng lớn lính và chiến đấu trở lại. Tướng Redvers Buller được thay thế bởi Lord Roberts và Lord Kitchener. Họ đã giải tỏa ba thành phố bị bao vây và xâm chiếm hai nước cộng hòa Boer vào cuối năm 1900. Các cuộc hành quân của quân đội Anh đã quá áp đảo đến mức Boers không chống lại những trận đánh được tổ chức để bảo vệ quê hương của họ. Nước Anh nhanh chóng nắm quyền kiểm soát toàn bộ Nhà nước Tự do Tự do và Transvaal, khi mà giới lãnh đạo dân sự đã trốn tránh hoặc lưu vong. Theo thuật ngữ thông thường, chiến tranh đã kết thúc. Anh chính thức sáp nhập hai nước vào năm 1900, và gọi đó là cuộc bầu cử kaki để cung cấp cho chính phủ thêm sáu năm nữa quyền lực tại London.
Tuy nhiên, người Boer từ chối đầu hàng. Họ quay trở lại chiến tranh du kích dưới các tướng mới là Louis Botha, Jan Smuts, Christiaan de Wet và Koos de la Rey. Hai năm nữa các cuộc tấn công bất ngờ và nhanh chóng thoát ra sau. Là du kích mà không có đồng phục, máy bay Boer dễ dàng pha trộn vào đất nông nghiệp, nơi cung cấp nơi ẩn náu, nguồn cung cấp, và ngựa. Giải pháp của Anh là thiết lập các khu nhà phức tạp, các điểm mạnh và hàng rào hàng rào kẽm, chia cắt toàn bộ lãnh thổ bị chinh phục. Các nông dân dân sự đã được di dời vào các trại tập trung, nơi tỷ lệ rất lớn đã chết vì bệnh tật, đặc biệt là trẻ em, những người hầu như thiếu các cơ hội miễn dịch. Sau đó các đơn vị bộ binh của Anh Quốc đã theo dõi hệ thống các đơn vị du kích Boer có tính di động cao. Cuộc chiến ở giai đoạn này là những cuộc hành quân nhỏ và chỉ có vài người bị thương (chiến tranh đã chấm dứt trong các điều khoản đầu hàng và của Anh tại Hiệp ước Vereeniging tháng 5 năm 1902). Anh đã thắng được các lãnh tụ Boer, những người đến lúc đó đã hỗ trợ đầy đủ cho hệ thống chính trị mới. Cả hai nước cộng hòa này đều được thành lập vào Liên minh Nam Phi vào năm 1910, do người Boer kiểm soát.
^The Rhodesia Regiment, drawing most of its personnel from the Southern Rhodesia Volunteers, served in the war, contributing around 1,000 men (Keppel-Jones 1983, tr. 590–59).
^5,774 chết trong chiến trận; 2.108 người chết vì bị thương; 14.210 chết vì bệnh tật (Eveleigh Nash 1914, tr. 309). 14.658 chết vì bệnh; 75.430 người trở về bị bệnh hoặc bị thương (Wessels 2011, tr. 79).
^6,189 người chết bao gồm: 3,990 chết trên chiến trường; 157 chết trong tai nạn; 924 người bị thương và bị bệnh; 1.118 chết khi là tù binh.(Wessels 2011, tr. 79).
Grundlingh, Albert (1980). “Collaborators in Boer Society”. Trong Warwick, P. (biên tập). The South African War. London. tr. 258–78.
Granatstein, J.L. (2010). The Oxford Companion to Canadian Military History. Oxford University Press. ISBN978-0-19-543088-2.
Grattan, Robert (2009). “The Entente in World War I: a case study in strategy formulation in an alliance”. Journal of Management History. 15 (2): 147–58.
Jones, Maurig (1996). “Blockhouses of the Boer War”. Colonial Conquest, magweb. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2008.
Judd, Denis; Surridge, Keith (2013). The Boer War: A History (ấn bản thứ 2). London: I. B. Tauris. ISBN978-1780765914.excerpt and text search; a standard scholarly history
Powell, Sean-Andre (2015). How Did Winston S. Churchill's Experience As A Prisoner Of War: During The Boer War Affect His Leadership Style And Career?. Pickle Partners Publishing.
Onselen, Charles van (tháng 10 năm 2003). “'The Modernization of the Zuid Afrikaansche Republiek: F. E. T. Krause, J. C. Smuts, and the Struggle for the Johannesburg Public Prosecutor's Office, 1898–1899”. Law and History Review. American Society for Legal History. 21 (3): 483–526. doi:10.2307/3595118.
Pakenham, Thomas (1991) [1979]. The Boer War. London: Cardinal. tr. 571. ISBN0-7474-0976-5.
Ploeger, Jan (1985). “Burgers in Britse Diens (1902)”. Scientia Militaria. 15 (1): 15–22.
Pretorius, Fransjohan (2000). “The Experience of the Bitter-Ender Boer”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass. tr. 179.
Pretorius, Fransjohan (2011). “Anglo-Boer war”. Trong Jacobs, S.; Johnson, K. (biên tập). Encyclopedia of South Africa.
Searle, G.R. (2004). A new England?: peace and war, 1886–1918. Oxford University Press. tr. 269–307.
Spies, S.B. (1977). Methods of Barbarism: Roberts and Kitchener and Civilians in the Boer Republics January 1900 – May 1902. Cape Town: Human & Rousseau. tr. 265.
Steele, David (2000). “Salisbury and the Soldiers”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass.
Stirling, John (ngày 17 tháng 2 năm 2009). “Gordon Highlanders (extract)”. Our Regiments in South Africa. Naval and Military Press.
Surridge, Keith (2000). “Lansdowne at the War Office”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass. tr. 24.
Swardt, Eric (1998). “The JJ Potgieter Manuscript”(PDF). tr. 97. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2009.
Wessels, André (2000). “Afrikaners at War”. Trong Gooch, John (biên tập). The Boer War: Direction, Experience and Image. London: Cass.
Wessels, André (2010). A Century of Postgraduate Anglo-Boer War (1899–1902) Studies: Masters' and Doctoral Studies Completed at Universities in South Africa, in English-speaking Countries and on the European Continent, 1908-2008. African Sun Media. tr. 32. ISBN978-1-920383-09-1.
Wessels, André (2011). The Anglo-Boer War 1889–1902: White Man's War, Black Man's War, Traumatic War. African Sun Media. tr. 79. ISBN978-1-920383-27-5.
Utahime Iori (Iori Utahime?) là một nhân vật trong seri Jujutsu Kaisen, cô là một chú thuật sư sơ cấp 1 và là giám thị học sinh tại trường trung học Jujutsu Kyoto.