Chi Mạch môn | |
---|---|
Cây và quả mạch môn (Ophiopogon japonicus) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Monocots |
Bộ (ordo) | Asparagales |
Họ (familia) | Asparagaceae |
Phân họ (subfamilia) | Nolinoideae |
Chi (genus) | Ophiopogon Ker Gawl., 1807 |
Loài điển hình | |
Ophiopogon japonicus (Thunb.) Ker Gawl., 1807 | |
Các loài | |
Xem văn bản. |
Chi Mạch môn hay chi Duyên giai thảo[1] (danh pháp khoa học: Ophiopogon, đồng nghĩa: Chloopsis Blume; Flueggea Richard (1807), Mondo Adanson; Slateria Desvaux.) là một chi chứa khoảng 65-72 loài cây thân thảo sống lâu năm, trong đó khoảng 38 loài đặc hữu của Trung Quốc, thuộc họ Măng tây (Asparagaceae), trước đây được phân loại trong họ Loa kèn (Liliaceae). Các loài trong chi này có nguồn gốc từ khu vực ôn đới ấm tới nhiệt đới thuộc miền đông, đông nam và nam châu Á. Tên gọi khoa học của chi này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp ophis, "rắn" và pogon, "râu", có lẽ là để chỉ tới lá của chúng.[2][3][4]
Chúng mọc lên từ các thân rễ ngắn và mang một chùm lá, từ đó các hoa xuất hiện thành dạng cành hoa trên các đoạn thân ngắn phía trên các lá.
Một số loài như Ophiopogon japonicus và Ophiopogon planiscapus được sử dụng như là loại cây che phủ mặt đất.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa thân củ của Ophiopogon japonicus, gọi là mạch môn đông, được dùng làm thuốc bổ âm.