Chlorurus bleekeri

Chlorurus bleekeri
Cá đực
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Scaridae
Chi (genus)Chlorurus
Loài (species)C. bleekeri
Danh pháp hai phần
Chlorurus bleekeri
(de Beaufort, 1940)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Callyodon bleekeri de Beaufort, 1940

Chlorurus bleekeri là một loài cá biển thuộc chi Chlorurus trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1940.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được đặt theo tên của nhà ngư học người Hà Lan Pieter Bleeker, người đã nhầm lẫn loài này với Scarus quoyi vào năm 1853[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. bleekeri có phạm vi phổ biến ở Tây Thái Bình Dương, nhưng thưa vắng ở Đông Ấn Độ Dương (chủ yếu được biết đến tại các rạn san hô vòng ngoài khơi Tây Úc). Từ bờ biển Nha Trang (Việt Nam), C. bleekeri được ghi nhận rộng rãi ở các đảo quốc thuộc Đông Nam Á; mở rộng về phía đông đến các đảo quốc thuộc châu Đại Dương (xa nhất là đến quần đảo Samoa); trải dài về phía nam đến rạn san hô Great Barrier[1]; ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản[3].

Loài này sống gần các rạn san hô ven bờ và trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 35 m[4].

C. bleekeri có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là gần 50 cm[4]. Thân thuôn dài, hình bầu dục; vây đuôi cụt ở cả hai giới. C. bleekeri đực trưởng thành có màu xanh lục lam với các vạch màu hồng trên mỗi vảy. Vây lưng và vây hậu môn có các dải sọc ngang màu hồng tím. Hai bên má có một vùng màu trắng được viền xanh lục và hồng tím[5][6].

Cá cái có màu nâu sẫm với 3–4 dải sọc màu xám nhạt ở trên thân; cuống và vây đuôi màu vàng nhạt. Vảy có các vạch màu cam sẫm[5]. Xung quanh miệng có các vệt màu xanh lam sáng ở cả hai giới[6]. Cá cái của C. bleekeriScarus schlegeli rất giống nhau về hình thái, trừ phần cuống đuôi vàng chỉ có ở C. bleekeri[7].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15[4].

Rất khó để phân biệt cá cái của C. bleekeri với Chlorurus troscheliiChlorurus capistratoides. Cá đực của chúng có thể nhận biết thông qua kiểu hình ở hai bên : chỉ C. bleekeri là có vùng trắng được viền hoàn toàn bởi sọc màu xanh, còn vùng trắngC. troschelii chỉ được viền bởi một vệt xanh ở trên, và còn C. capistratoides không có viền xanh bao quanh vùng trắng này[7]. C. bleekeri là một loài chị em với Chlorurus bowersi, và C. troschelii cũng được cho là nằm trong nhóm chị em với hai loài này[8].

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. bleekeritảo. Cá cái thường hợp thành các nhóm nhỏ hoặc có thể lẫn vào đàn của các loài cá khác khi kiếm ăn; cá đực sống đơn độc và bơi gần đó[4]. Cá đực có thể sống theo chế độ hậu cung[7]. C. bleekeri là một loài lưỡng tính tiền nữ[6].

C. bleekeri có thể bị đánh bắt bằng thuốc nổ ở khu vực Tam giác San Hô[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c J. H. Choat và cộng sự (2012). Chlorurus bleekeri. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T190744A17787664. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T190744A17787664.en. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ Hidenori Yoshigou và cộng sự (2008). “First record of Chlorurus bleekeri (Perciformes, Scaridae) from Japan”. Bulletin of the Biogeographical Society of Japan (bằng tiếng Nhật). 63: 97–102.
  4. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chlorurus bleekeri trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2021.
  5. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 346. ISBN 978-0824818951.
  6. ^ a b c Dianne J. Bray. “Bleeker's Parrotfish, Chlorurus bleekeri (de Beaufort 1940)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
  7. ^ a b c D. R. Bellwood (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3475. ISBN 978-9251045893.
  8. ^ Lydia L. Smith và cộng sự (2008). “Phylogenetic Relationships and the Evolution of Regulatory Gene Sequences in the Parrotfishes”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 49 (1): 136–152. PMC 3418665.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tam vị tương thể cấu thành nên một sinh vật trong Tensura
Tam vị tương thể cấu thành nên một sinh vật trong Tensura
Cơ thể của một sinh vật sống có xác thịt ví dụ như con người chẳng hạn, được cấu tạo bởi tam vị tương thể
Tuyển người giỏi không khó, tuyển người phù hợp mới khó
Tuyển người giỏi không khó, tuyển người phù hợp mới khó
Thông thường HM sẽ liệt kê các công việc (Trách nhiệm) của vị trí, dựa trên kinh nghiệm của cá nhân mình
Sơ lược lịch sử đầy chính trị của Phở
Sơ lược lịch sử đầy chính trị của Phở
Phở đã trở nên gần gũi với Văn hóa Việt Nam tới mức người ta đã dùng nó như một ẩn dụ trong các mối quan hệ tình cảm
Nhân vật Makima - Chainsaw Man
Nhân vật Makima - Chainsaw Man
Cô được tiết lộ là Ác quỷ Kiểm soát (支 し 配 は い の 悪 あ く 魔 ま Shihai no Akuma?), Hiện thân của nỗi sợ kiểm soát hoặc chinh phục