Choi Jung-won | |
---|---|
Sinh | 1 tháng 5, 1981 Sadang-dong, Dongjak-gu, Seoul, Hàn Quốc |
Học vị | Đại học Kyonggi – Khoa Đa phương tiện và Hình ảnh |
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 1999–nay |
Người đại diện | Will Entertainment[1] |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Choe Jeong-won |
McCune–Reischauer | Ch'oe Chŏng'wŏn |
Choi Jung-won (tiếng Hàn: 최정원; sinh ngày 1 tháng 5 năm 1981) là nam ca sĩ và diễn viên người Hàn Quốc.[2][3][4] Ban đầu anh nổi tiếng với vai trò là thành viên của bộ đôi Hàn Quốc UN ra mắt với đĩa đơn "Voice Mail" vào năm 2000.[5] Sau khi bộ đôi này tan rã vào năm 2005, anh trở nên nổi tiếng hơn với vai trò là một diễn viên.
Năm | Nhan đề | Kênh | Vai diễn | Ghi chú | Ng. |
---|---|---|---|---|---|
2004 | Between Agasshi and Ajumma | MBC | Con trai thứ hai | ||
2005 | Beating Heart | MBC | Jung-hyun | ||
2012 | Sent From Heaven | KBS2 | Geum Mo-rae | ||
2013 | Hoàng hậu Ki | MBC | Wang Gi | Là hoàng tử Gangneung, sau này là Vua Gongmin. | |
2014 | My Secret Hotel | tvN | Yoo Si-chan | ||
Healer | KBS2 | Lee Jun-bin | Xuất hiện đặc biệt | ||
2015 | The Family is Coming | SBS | Han Sang-woo | ||
A Daughter Just Like You | MBC | Ahn Jin-bong | |||
The Time We Were Not in Love | SBS | Joo Ho-joon | Vai phụ | ||
2016 | The Shining Eun Soo | KBS1 | Yoon Su-hyeon | ||
2018 | Love Alert | MBN | Hwang Jae-min | Xuất hiện đặc biệt | [6] |
2021 | Tiền bối, đừng đánh màu son đó | JTBC | Ryu Han-Seo | Vai phụ | |
2022 | Curtain Call | KBS2 | Người quen của Song Hyo-jin | Cameo (tập 1) | [7] |
Năm | Tên phim | Vai diễn | Ghi chú | Ng. |
---|---|---|---|---|
2020 | The Name | Mo Cheol-woo | Vai chính | [8] |
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | (Những) Người / Tác phẩm được đề cử | Kết quả | Ng. |
---|---|---|---|---|---|
2003 | Giải thưởng giải trí KBS lần thứ 2 (2nd KBS Entertainment Awards) | Giải thưởng nam tân binh của năm | Music Bank | Đề cử |