Clonidine, được bán dưới nhãn hiệu Catapres và các nhãn hiệu khác, là một loại thuốc dùng để điều trị huyết áp cao, rối loạn tăng động giảm chú ý, cai nghiện (rượu, opioid hoặc thuốc lá), đỏ bừng mặt do mãn kinh, tiêu chảy và một số tình trạng đau.[7] Nó được uống qua miệng hay bằng cách tiêm hoặc như một miếng dán trên da. Thuốc bắt đầu có tác dụng trong vòng một giờ với các tác động lên huyết áp kéo dài đến tám giờ.
Clonidine được cấp bằng sáng chế vào năm 1961 và được đưa vào sử dụng y tế vào năm 1966.[9][10][11] Nó có sẵn như là một loại thuốc gốc.[7] Tính đến năm 2019 một tháng thuốc tiêu tốn của NHS khoảng 8 bảng Anh.[8] Tại Hoa Kỳ, chi phí này trị giá khoảng 2,70 USD vào năm 2019.[12] Năm 2016, đây là loại thuốc được kê đơn nhiều thứ 76 tại Hoa Kỳ với hơn 10 triệu đơn thuốc.[13]
Clonidine có thể cải thiện các triệu chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở một số người, nhưng gây ra nhiều tác dụng phụ và tác dụng có lợi là khiêm tốn.[16] Ở Australia, clonidine được TGA chấp nhận nhưng không phê chuẩn để sử dụng trong điều trị ADHD.[17] Clonidine cùng với methylphenidate đã được nghiên cứu để điều trị ADHD.[18][19][20] Mặc dù không hiệu quả như methylphenidate trong điều trị ADHD, nhưng clonidine vẫn mang lại một số lợi ích;[21] nó cũng có thể hữu ích khi kết hợp với các loại thuốc kích thích.[22] Một số nghiên cứu cho thấy clonidine có tác dụng an thần hơn guanfacine, có thể tốt hơn vào lúc đi ngủ, với chất kích thích hưng phấn vào buổi sáng.[23][24]
Clonidine có thể được sử dụng để giảm bớt các triệu chứng cai nghiện liên quan đến việc đột ngột dừng việc sử dụng lâu dài opioid (thuốc phiện và các dẫn xuất), rượu, benzodiazepine và nicotin (hút thuốc).[25] Nó có thể làm giảm bớt các triệu chứng cai nghiện opioid bằng cách giảm phản ứng của hệ thần kinh giao cảm như nhịp tim nhanh bất thường và cao huyết áp, cũng như giảm đổ mồ hôi, nóng và lạnh đột ngột, và cảm giác bồn chồn nói chung.[26] Nó cũng có thể hữu ích trong việc hỗ trợ người hút thuốc bỏ thuốc lá.[27] Tác dụng an thần cũng là hữu ích. Tuy nhiên, tác dụng phụ của nó có thể bao gồm mất ngủ, do đó làm trầm trọng thêm một đặc điểm vốn đã phổ biến của việc cai nghiện opioid.[28] Clonidine cũng có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của triệu chứng cai nghiện sơ sinh ở trẻ sơ sinh được sinh ra từ các bà mẹ đang sử dụng một số loại thuốc, đặc biệt là opioid.[29] Ở trẻ sơ sinh có triệu chứng cai nghiện sơ sinh, clonidine có thể cải thiện điểm số trên Thang điểm Mạng lưới Hành vi thần kinh của Đơn vị chăm sóc tích cực trẻ sơ sinh.[30]
Clonidine cũng đã được đề xuất như một phương pháp điều trị cho các trường hợp cai nghiện dexmedetomidine hiếm gặp.[31]
^“Catapres- clonidine hydrochloride tablet”. DailyMed. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019. The pharmacokinetics of clonidine is dose-proportional in the range of 100 to 600 µg.The absolute bioavailability of clonidine on oral administration is 70% to 80%. Peak plasma clonidine levels are attained in approximately 1 to 3 hours.
^ abLowenthal, D. T.; Matzek, K. M.; MacGregor, T. R. (tháng 5 năm 1988). “Clinical pharmacokinetics of clonidine”. Clinical Pharmacokinetics. 14 (5): 287–310. doi:10.2165/00003088-198814050-00002. PMID3293868.
^“Catapres- clonidine hydrochloride tablet”. DailyMed. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019. Catapres tablets act relatively rapidly. The patient’s blood pressure declines within 30 to 60 minutes after an oral dose, the maximum decrease occurring within 2 to 4 hours.
^“Catapres- clonidine hydrochloride tablet”. DailyMed. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019. Following intravenous administration, clonidine displays biphasic disposition with a distribution half-life of about 20 minutes and an elimination half-life ranging from 12 to 16 hours. The half-life increases up to 41 hours in patients with severe impairment of renal function. Clonidine crosses the placental barrier. It has been shown to cross the blood-brain barrier in rats.
^ abBritish national formulary: BNF 76 (ấn bản thứ 76). Pharmaceutical Press. 2018. tr. 144. ISBN9780857113382.
^Neil, M. J. (tháng 11 năm 2011). “Clonidine: clinical pharmacology and therapeutic use in pain management”. Current Clinical Pharmacology. 6 (4): 280–287. doi:10.2174/157488411798375886. PMID21827389.
^Stähle, Helmut (tháng 6 năm 2000). “A historical perspective: development of clonidine”. Best Practice & Research Clinical Anaesthesiology. 14 (2): 237–246. doi:10.1053/bean.2000.0079.
^“NADAC as of 2019-01-30”. Centers for Medicare and Medicaid Services (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
^“CATAPRES- clonidine hydrochloride tablet”. DailyMed. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019. Slowing of the pulse rate has been observed in most patients given clonidine, but the drug does not alter normal hemodynamic response to exercise. Other studies in patients have provided evidence of a reduction in plasma renin activity and in the excretion of aldosterone and catecholamines.
^Rossi S. biên tập (2013). Australian Medicines Handbook (ấn bản thứ 2013). Adelaide: The Australian Medicines Handbook Unit Trust. ISBN9780980579093.
^Palumbo, DR; Sallee, FR; Pelham WE, Jr; Bukstein, OG; Daviss, WB; McDermott, MP (tháng 2 năm 2008). “Clonidine for attention-deficit/hyperactivity disorder: I. Efficacy and tolerability outcomes”. Journal of the American Academy of Child and Adolescent Psychiatry. 47 (2): 180–8. doi:10.1097/chi.0b013e31815d9af7. PMID18182963.
^Daviss, W. B.; Patel, N. C.; Robb, A. S.; McDermott, M. P.; Bukstein, O. G.; Pelham W. E., Jr.; Palumbo, D.; Harris, P.; Sallee, F. R. (tháng 2 năm 2008). “Clonidine for attention-deficit/hyperactivity disorder: II. ECG changes and adverse events analysis”. J. Am. Acad. Child Adolesc. Psychiatry. 47 (2): 189–198. doi:10.1097/chi.0b013e31815d9ae4. PMID18182964.
^Palumbo, Donna R.; Sallee, Floyd R.; Pelham, William E.; Bukstein, Oscar G.; Daviss, W. Burleson; McDermott, Michael P. (tháng 2 năm 2008). “Clonidine for Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder: I. Efficacy and Tolerability Outcomes”. J. Am. Acad. Child Adolesc. Psychiatry. 47 (2): 180–188. doi:10.1097/chi.0b013e31815d9af7. PMID18182963.
^Jäkälä, P.; Riekkinen, M.; Sirviö, J.; Koivisto, E.; Kejonen, K.; Vanhanen, M.; Riekkinen Jr., P. (1999). “Guanfacine, But Not Clonidine, Improves Planning and Working Memory Performance in Humans”. Neuropsychopharmacology. 20 (5): 460–470. doi:10.1016/S0893-133X(98)00127-4. PMID10192826.
^Giannini A. J.; Extein I.; Gold M. S.; Pottash A. L. C.; Castellani S. (1983). “Clonidine in mania”. Drug Development Research. 3 (1): 101–105. doi:10.1002/ddr.430030112.
^Streetz V. N., Gildon B. L., Thompson D. F. (tháng 4 năm 2016). “Role of Clonidine in Neonatal Abstinence Syndrome: A Systematic Review”. Ann Pharmacother. 50 (4): 301–310. doi:10.1177/1060028015626438. PMID26783353.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Kukoyi A., Coker S., Lewis L., Nierenberg D. (tháng 1 năm 2013). “Two cases of acute dexmedetomidine withdrawal syndrome following prolonged infusion in the intensive care unit: Report of cases and review of the literature”. Human and Experimental Toxicology. 32 (1): 107–110. doi:10.1177/0960327112454896. PMID23111887.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)