Gary Bruce Ruvkun (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1952) là một nhà sinh học phân tử người Mỹ tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, giáo sư di truyền học tại Trường Y Harvard.
Ruvkun xác định lin-4, microRNA (miRNA) đầu tiên được Victor Ambros phát hiện, điều hòa dịch mã RNA thông tin thông qua sự ghép cặp base không hoàn hảo và phát hiện let-7, một miRNA được bảo tồn trong quá trình phát sinh loài động vật, bao gồm ở người. Công trình nghiên cứu của Ruvkun mở ra một thế giới mới về sự điều hòa RNA ở quy mô nhỏ chưa từng có. Ruvkun cũng phát hiện ra nhiều đặc điểm của tín hiệu giống insulin trong việc điều hòa lão hóa và trao đổi chất.
Năm 2024, ông được trao Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học vì phát hiện miRNA và công trình nghiên cứu vai trò của miRNA trong điều hòa biểu hiện gen sau phiên mã.[3]
Nghiên cứu của Ruvkun cho thấy miRNA lin-4, một RNA điều hòa gồm 22 nucleotide do Victor Ambros phát hiện vào năm 1992, điều hòa lin-14, RNA thông tin mục tiêu của lin-4, bằng cách hình thành các chuỗi RNA không hoàn chỉnh để giảm dịch mã.[5][6] Ambros phát hiện rằng lin-4 mã hóa một miRNA rất nhỏ gồm 22 nucleotide. Trình tự của miRNA lin-4 liên kết với các đoạn phình và vòng được bảo tồn ở vùng không được dịch mã đầu 3' của lin-14. Khi các base ở vùng này của lin-14 bị xóa bỏ, lin-14 không còn bịlin-4 ức chế dịch mã. Ngoài ra, khi vùng không được dịch mã đầu 3' của lin-14 được thêm vào một RNA thông tin khác, RNA đó liên kết với lin-4 và bị lin-4 ức chế dịch mã. Ruvkun công bố kết quả nghiên cứu cơ chế lin-4 điều hòa lin-14 vào năm 1993.[7] Trong cùng năm, Victor Ambros công bố lin-4 mã hóa một RNA nhỏ có thể ghép cặp với lin-14.[8] Hai bài báo này hé lộ một thế giới mới về điều hòa RNA ở quy mô nhỏ chưa từng có.[9][10] Nghiên cứu của Ruvkun và Ambros được công nhận là công trình đầu tiên về miRNA và cơ chế ức chế dịch mã RNA thông tin của miRNA.[11]
Năm 2000, Ruvkun công bố phát hiện let-7 là miRNA thứ hai trong Caenorhabditis elegans. Giống như lin-4, let-7 điều hòa dịch mã gen mục tiêu là lin-41 thông qua sự ghép cặp không hoàn hảo với vùng không được dịch mã đầu 3' của lin-41.[12][13] Đây là dấu hiệu cho thấy việc miRNA điều hòa gen thông qua sự ghép cặp vùng không được dịch mã đầu 3' có thể là một đặc điểm phổ biến và có thể có nhiều miRNA khác. Cuối năm 2000, Ruvkun công bố rằng trình tự và sự điều hòa của let-7 được bảo tồn trong toàn bộ quá trình phát sinh loài động vật, bao gồm ở người.[14]
Hai lĩnh vực can thiệp RNA và miRNA hội tụ khi siRNA có cùng kích thước 21-22 nucleotide như lin-4 và let-7 được phát hiện trong thực vật vào năm 1999.[15] Giả thuyết là miRNA và siRNA có kích thước giống nhau dùng các cơ chế giống nhau. Phòng thí nghiệm của Mello và Ruvkun hợp tác công bố rằng cả miRNA và siRNA đều dùng protein Dicer và PIWI và các paralog của chúng, các thành phần được phát hiện đầu tiên của can thiệp RNA.[16] Ruvkun công bố xác định nhiều miRNA khác vào năm 2003,[17][18] xác định miRNA từ tế bào thần kinh động vật có vú vào năm 2004[19] và phát hiện nhiều cofactor mới cho chức năng của miRNA vào năm 2007.[20][21][22]
Trao đổi chất và tuổi thọ của Caenorhabditis elegans
Ruvkun phát hiện một con đường truyền tín hiệu giống insulin kiểm soát quá trình trao đổi chất và tuổi thọ của Caenorhabditis elegans. Trước đó, đã có công bố rằng chương trình ức chế phát triển do các gen age-1 và daf-2 điều hòa làm tăng tuổi thọ của Caenorhabditis elegans.[23][24][25] Ruvkun xác định hai gen này tạo một thụ thể giống insulin và một phosphatidylinositol kinase hạ lưu liên kết với sản phẩm gen daf-16, một yếu tố phiên mã Forkhead được bảo tồn cao.[26] Các gen tương đồng của những gen này có liên quan đến việc điều hòa lão hóa của con người.[27] Những kết quả này cũng quan trọng đối với bệnh tiểu đường vì các gen trực hệ của động vật có vú của daf-16 cũng được insulin điều hòa.[28] Ruvkun dùng can thiệp RNA toàn bộ hệ gen để xác định các gen điều hòa lão hóa và trao đổi chất, nhiều gen được bảo tồn rộng rãi trong quá trình phát sinh loài động vật và có thể là mục tiêu của thuốc điều trị bệnh tiểu đường.[29]
^Ruvkun, G; Wightman, B; Bürglin, T; Arasu, P (1991). "Dominant gain-of-function mutations that lead to misregulation of the C. Elegans heterochronic gene lin-14, and the evolutionary implications of dominant mutations in pattern-formation genes". Development. Supplement. 1: 47–54. PMID1742500.
^Reinhart, B. J.; Slack, F. J.; Basson, M.; Pasquinelli, A. E.; Bettinger, J. C.; Rougvie, A. E.; Horvitz, H. R.; Ruvkun, G. (2000). "The 21-nucleotide let-7 RNA regulates developmental timing in Caenorhabditis elegans". Nature. 403 (6772): 901–906. Bibcode:2000Natur.403..901R. doi:10.1038/35002607. PMID10706289.
^Pasquinelli, A. E.; Reinhart, B. J.; Slack, F.; Martindale, M. Q.; Kuroda, M. I.; Maller, B.; Hayward, D. C.; Ball, E. E.; Degnan, B.; Müller, B.; Spring, P. (2000). "Conservation of the sequence and temporal expression of let-7 heterochronic regulatory RNA". Nature. 408 (6808): 86–89. Bibcode:2000Natur.408...86P. doi:10.1038/35040556. PMID11081512.
^Hamilton, A. J.; Baulcombe, D. C. (1999). "A species of small antisense RNA in posttranscriptional gene silencing in plants". Science. 286 (5441): 950–952. doi:10.1126/science.286.5441.950. PMID10542148.
^Lee, Siu Sylvia; Kennedy, Scott; Tolonen, Andrew C.; Ruvkun, Gary (ngày 25 tháng 4 năm 2003). "DAF-16 Target Genes That Control C. elegans Life-Span and Metabolism". Science. 300 (5619): 644–647. Bibcode:2003Sci...300..644L. doi:10.1126/science.1083614. PMID12690206.
Takurou, nhân vật chính của chúng ta đã phải làm thêm cật lực suốt nửa đầu của mùa hạ, với hi vọng rằng kỳ nghỉ hè cuối cùng của tuổi học trò sẽ đong đầy ý nghĩa.
Mình sở hữu chiếc túi designer bag đầu tiên cách đây vài năm, lúc mình mới đi du học. Để mà nói thì túi hàng hiệu là một trong những ''life goals" của mình đặt ra khi còn bé