Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài bách khoa khác để trở thành một phần của bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia. |
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Giáo lý Cao Đài là những lý thuyết của đạo Cao Đài
Mục đích của đạo Cao Đài nhằm hoàn thiện hóa con người và xây dựng xã hội bình đẳng, thế giới đại đồng. Về mặt tâm linh, đạo Cao Đài có mục đích giải thoát luân hồi sanh tử. Nói gọn, mục đích của đạo Cao Đài là "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát".
Tôn chỉ Cao Đài là "Tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục nhất". Tam giáo tức là Tam giáo đạo gồm: Phật giáo - Lão giáo - Nho giáo.
Qua tiêu ngữ này, Cao Đài công nhận mục đích cứu cánh của tất cả tôn giáo chân chính có cùng một chân lý là hướng dẫn con người sống có đạo đức, hoàn thiện hóa bản thân, hoàn thiện hóa xã hội và giải thoát linh hồn.
Từ đó Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của mọi tôn giáo và nêu lên nguyên lý chung của mọi nền giáo lý tức là giáo lý Đại Đạo khả dĩ giác ngộ nhân loại toàn cầu.
Giáo lý Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn bản là:
Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý Cao Đài quan niệm Từ nguyên lý thứ hai, giáo lý Cao Đài quan niệm vũ trụ là một trường tiến hóa có khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức Thượng đế, phóng phát các điểm linh quang tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, đến thảo mộc, thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng liêng Thần Thánh Tiên Phật để trở về hợp nhất với Thượng đế.
Do đó cứu cánh của con người là tiến hóa trở về với Thượng đế, tức nguồn gốc của mình mà cũng là của vũ trụ. Muốn thế, con người phải biết tu công lập đức để hoàn hảo hóa bản thân đến mức chí chân chí thiện. Giáo lý Cao Đài gọi đó là "Phản bổn hoàn nguyên".
Giáo lý Cao Đài cho rằng vũ trụ nguyên sơ là không gian Vô Cực. Từ bản thể Vô Cực phát sinh một nguyên lý và một nguyên khí ngưng kết với nhau thành một khối tinh quang. Khối ấy nổ tung ra làm phát sinh Thái Cực Đại Linh Quang: "Thái Cực lấy cơ thể âm dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gom tụ cái Khí Hư Vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật" (Đại Thừa Chân Giáo-Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh, 1950, tr.176)
Đó là cơ sinh hóa, tiếp theo là cơ tiến hóa của vạn vật, vì vạn vật thọ bẩm bản thể Linh Quang sẽ tiến hóa trở về hiệp với Đại Linh Quang theo quy luật "nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản".
Từ vũ trụ quan này, Giáo lý Cao Đài nêu lên Nguyên lý tương quan giữa Đại linh quang và Tiểu linh quang để từ đó triển khai giáo thuyết hoàn thiện con người cả hai mặt: đời sống nhân sinh và tiến hóa tâm linh.
Theo giáo lý Cao Đài, vạn vật phát sinh từ Thái Cực. Thái Cực là Đại Linh Quang theo nghĩa bản thể đồng thời là bản căn của vạn vật. Còn trong ý nghĩa tâm linh, đó là khối Đại Nguyên Thần của toàn cả vũ trụ. Mỗi con người đều thọ bẩm một điểm Tiểu Linh Quang có cùng bản tính, bản chất với Đại Linh Quang, nên còn gọi là điểm nguyên thần chiết xuất từ Đại Linh Quang.
Tu luyện là cách con người tự vén tan màn vô minh bao phủ để làm sáng tỏ điểm nguyên thần ấy. Nhờ đó, khi thoát xác, Tiểu Linh Quang sẽ hội nhập trở lại cùng Đại Linh Quang tức Thượng đế Chí Tôn.
Theo Cao Đài, trong chu trình tiến hóa của vũ trụ, vạn vật tiến hóa dần dần lên đến hàng nhân loại mới có đủ tam hồn là sanh hồn, giác hồn và linh hồn để tu luyện giải thoát.
Biểu tượng Âm-Dương hay Thái Cực trong Đạo Lão Lý Âm Dương, hay Dịch lý, nói chung thể hiện rất rõ nét trong vũ trụ luận, giáo lý căn bản và qua các biểu tượng của đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài quan niệm vũ trụ có một bản thể tối sơ gọi là Vô Cực. Ngay trong bản thể ấy đã hàm tàng hai nguồn năng lực nguyên thủy của Dương và Âm là Lý và Khí. Kinh Đại thừa chơn giáo viết: "Trong Vô Cực có một cái nguyên lý Thiên nhiên tuyệt diệu tuyệt huyền, rồi lại có thểm một cái nguyên khí Tự nhiên nữa. Lý và Khí ấy tức là Âm với Dương trong buổi Hồng nguyên thời đại. Lý với Khí ấy lại lần lần ngưng kết với nhau mà đông tụ lại lâu đời nhiều kiếp mới thành ra một khối tinh quang rất đầy đủ các sự tốt đẹp. Chừng đúng ngày giờ khối ấy mới nổ tung ra [...], bèn có một điểm Linh quang từ trong tiếng nổ ấy văng ra [...]. Ấy là ngôi Chúa tể càn khôn vũ trụ đã biến hóa ra vậy; mà vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực [...]"(1)
Thái Cực là nguyên lý hay nguyên động lực thúc đẩy hai nguồn năng lực Âm Dương trong vũ trụ để sanh hóa vạn vật: "Thái Cực lấy cơ thể Âm Dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gom tụ khí Hư vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật."(2)
Vậy trước khi có Thái Cực đã có Khí – Lý là gốc của Âm Dương thuộc về tiên thiên. Còn sau khi Thái Cực hóa sanh vạn vật thì trong mỗi vật và tương đối giữa muôn loài đều tiềm ẩn hoặc bộc lộ tính chất Âm Dương. Đó là Âm Dương thuộc hậu thiên.
Dịch Hệ từ thượng có câu: "Nhất âm nhất dương chi vị Đạo." Đối với đạo Cao Đài đó là nguyên lý cơ bản để giải thích nguồn gốc và cứu cánh của chúng sanh. Sanh hóa do Đạo mà tiến hóa cũng bởi Đạo. Thánh ngôn Đức Cao Đài có dạy: "Các con đã sinh trong Đại đạo, hãy noi theo Đại đạo mà thành về cõi thượng thiên Vô Cực."(3)
Bước vào bên trong các thánh thất Cao Đài, bao giờ cũng thấy tín đồ nam bên cánh trái và nữ bên cánh phải (từ Thiên bàn ngó ra) theo quy ước "nam tả, nữ hữu", bên trái thuộc dương, bên phải thuộc âm.
Nhìn lên chính điện, thánh tượng "Thiên nhãn" uy nghiêm được thờ phía trên Thiên bàn là hình mắt trái – thuộc Dương. Thiên nhãn là biểu tượng Chân thần của Thượng đế đối ứng với biểu tượng chữ "Khí" phía trên bàn Hộ pháp, có ý nghĩa Thần Khí tương giao hay Âm (Khí) và Dương (Thần) giao hội, thuộc về yếu lý của Đạo pháp.
Dưới Thiên nhãn có đèn Thái cực đặt giữa Thiên bàn, tương ứng với hai ngọn đèn hai bên là Lưỡng nghi. Lư hương cắm năm cây nhang giữa hai đèn Lưỡng nghi tượng trưng cho Ngũ hành.
Về nghi lễ, cách chắp tay lạy cũng có ý nghĩa Âm dương. Tay trái bắt ấn Tý nắm lại là Dương, đặt vào lòng tay phải bọc ngoài là Âm, tức trong Âm có Dương. Khi cúi lạy, hai bàn tay xòe ra đặt trên mặt đất, ngón cái tay phải gác ngay ngón cái tay trái thành chữ thập tức Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tám ngón kia xòe ra tức Tứ tượng sinh Bát quái. Đó là cách thể hiện Dịch lý của cơ sanh hóa trong trời đất.
Đặc biệt trong hàng giáo phẩm cao cấp đầu tiên của đạo Cao Đài có hai vị Đầu sư là Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch được ban thánh danh là Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt. Nhựt nguyệt ám chỉ lý Âm dương của Đạo vậy.
Kinh Cao Đài còn dạy rằng sự thực hành đạo đức cũng phải theo lý Âm dương hòa hiệp, không thể chỉ tu Đạo mà không lập Đức: "Đạo đức phải đi cặp nhau. Đạo là Dương, Đức là Âm. Âm dương phải tương cảm tương ứng, điều hòa mới thành đặng. Con người phải biết đường thiên lý, lo tu hành quày bước trở lại chỗ bổn nguyên, mượn pháp đạo mà luyện tánh tu tâm, dùng đức cả sửa mình nên hạnh tốt."(4)
Con người có thể học lý Âm dương sanh hóa của trời đất để sinh tồn, phát triển và tiến hóa bằng cách điều hòa được hai nguồn năng lực tương phản tương đối:
"Khí Âm dương hỗn hiệp nhau, đụng chạm mà hóa hóa sanh sanh là do trong chỗ điều hòa, tương ứng, tương cảm, huân chưng đầm ấm mới tạo thành nghìn giống muôn vẻ thiên hình vạn trạng... không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật."(5)
Một tức Thái cực, hai tức Âm dương (Lưỡng nghi), ba tức nguồn năng lực thứ ba do Âm dương tương tác hỗn hiệp mà phát sinh.
Nên kinh viết tiếp: "Vậy thì cái sự sinh đó cũng do nơi hòa mà có. Thế nên Đạo của trời đất cũng bất ngoại hai chữ Trung hòa."(6)
Mà Trung hòa cũng là đạo làm nên thánh hiền. Sách Trung dung viết: "Trung là gốc lớn của thiên hạ, Hòa là sự đạt đạo của thiên hạ."
Đạo Cao Đài đã vận dụng lý Âm dương rất sâu sắc trong sự lập đạo, hành đạo, thực hành đạo pháp:
Nêu lên quan điểm về nhân sinh ở giữa nguồn gốc và cùng đích con người là nhân sinh quan Cao Đài gồm có:
Đức Chí Tôn dạy: "Vẫn biết thế gian là bể khổ sông mê, nhưng chính thế gian là một chốn học đường của muôn loài vạn vật. Nhờ học đường ấy mà muôn loài vạn vật mới mở mang tiến hóa, sáng suốt tinh thần để tấn bộ trên nấc thang cao thượng". (ĐTCG, sđd, tr.154)
Đức Chí Tôn dạy: "Làm người cần phải học hỏi, có học hỏi mới thông đạt, minh mẫn, mới biết lẽ dữ điều lành, mới tường đường quấy sự phải, mà tránh cho khỏi tội tình. Chớ nếu không học hỏi thì điểm Tiểu Linh Quang phải trở nên mê muội mà người cam dốt nát ngu hèn". (ĐTCG, sđd, tr.154)
Làm người phải xả thân giúp đời như Kinh Đại Thừa Chân Giáo có viết:
Đó là những nghĩa vụ nhằm:
Cao Đài Giáo nêu một xã hội loài người lý tưởng là xã hội "thánh đức" bao gồm đời sống an lạc, xây dựng trên tinh thần nhân bản và có hiệu năng tiến bộ.
Đức Chí Tôn có dạy: "Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời thì Đạo chưa thành vậy". (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tòa Thánh Tây Ninh, 1973, tr.105)
Như thế bằng chứng thực tiễn và trước tiên về thành quả của Đạo, chính là sự an lạc của cõi đời. Cao Đài phải là một tôn giáo vị nhân sinh. Đức Chí Tôn dạy: "Các con biết Thầy là trọng thì biết trọng đạo, mà hễ trọng đạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh". (TNHT, Tây Ninh, sđd, tr.94)
Và thánh giáo Cao Đài còn viết:"...Tôn giáo và chúng sanh là Một. Chúng sanh được hoàn thiện thì tôn giáo mới phát khởi nguồn Đạo, nhược bằng chúng sanh sai lạc thì tôn giáo chịu suy đồi".(Thánh Huấn Hiệp Tuyển, Tòa Thánh Châu Minh, Q1,1963,tr.116)Tính chất thực tiễn của nhân sinh quan Cao Đài còn thấy rõ qua Thánh giáo sau đây:
Tóm lại, Cao Đài quan niệm Đạo lập ra là để cứu rỗi nhơn sinh, nghĩa là Thượng Đế mở ra con đường cho nhân loại trở về với Thượng Đế. Nhưng con đường ấy được mở đầu ở ngay tự thân con người và kết quả sẽ nhận được ngay trong cõi đời. Bởi vì:"Người sanh ra bởi Đạo, thì Đạo tức là người, thì người phải làm sáng cái Đạo, tức là người phải ra NGƯỜI để tự cứu cánh và ảnh hưởng đến vạn vật".(TGST, Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý,1972-1973,tr.38)
Như thế, nhân sinh quan Cao Đài nhất trí với vũ trụ quan Cao Đài ở điểm nhân bản. Nhân bản là bản chất chơn ngã của con người. Nhân bản là tình cảm thiêng liêng mà Thượng Đế Chí Tôn đã dành cho mỗi con ngườithể hiện ra bằng nhân tính hay là tình thương.
Vũ trụ quan Cao Đài là quan niệm "Nhất thể nhất nguyên" về vũ trụ. Nhất thể là khí Hư Vô, nhất nguyên là Thái Cực. Thế nên nơi vạn vật đều có tiềm tàng bản chất ban đầu của trời đất (Khí tiên thiên) và động năng sinh thành của vũ trụ (Thái Cực). Đó là nguyên lý "Thiên địa vạn vật đồng nhất thể" trong giáo lý Cao Đài, là cơ sở của cứu cánh "Thiên nhân hiệp nhất".
Nếu cứ để cho muôn loài vạn vật tiến hóa tự nhiên trong nguyên lý nhất thể nêu trên thì đến một thời điểm xa xôi nào đó, vạn vật cũng phải quay đầu về nguồn gốc là ngôi Một, ngôi Thái Cực. Nhưng, trong Hư Vô nhất thể còn có tình thương vô biên của Thượng đế:
Và:
Thế nên chữ Thiên trong câu Thiên nhân hiệp nhất phải hiểu theo nghĩa rất sinh động là Đức "Háo sanh" của Thượng đế, là "Thiên ý cứu độ chúng sanh". Ngài dạy:
"Đạo là con đường duy nhất cho vạn linh sanh chúng từ Thầy ban phát đến thế gian và từ thế gian các con trở lại cùng Thầy".
"Thầy là Hư Vô chi khí thì Đạo cũng đồng nghĩa đó thôi. Nên chi trong thời kỳ hạ nguơn, chính mình Thầy dùng Khí Hư Vô trực tiếp hữu hình đến thế gian để dẫn dắt thâu hồi những điểm linh quang của Thầy đã cho xuống thế gian trở về khối Đại Linh Quang".(10)
Nhưng đến đây chúng ta chỉ mới thấy một chiều của quy luật ấy. "Thiên nhân hiệp nhất" còn phải hiểu là "Sứ mạng Kỳ Ba" triển khai ngay tại thế gian để thực hiện đức hiếu sinh của Thượng đế và tình thương giữa con người và con người.
Có nhận thức "Thiên nhân hiệp nhất" là sứ mạng của người giác ngộ, mới thực hiện được chiều thứ hai của động năng hiệp nhất. Bởi vì chữ "Nhân" đúng nghĩa là "Con người tích cực" là "Nhân năng hoằng đạo" là quyền lực của một "Tiểu vũ trụ".
Trong giáo lý Cao Đài, Đức Chí Tôn viết: "Các con hay nói chung là nhân loại, những hột giống linh căn được gieo vào vũ trụ, được ban phát quyền Tạo Hóa để lập thành cuộc ngự trị cõi thế gian, mà các con gọi là đời, nguyên nhân là Lý, là Đại Đạo, là Thầy, là Cha chung của vạn loại... Các con đã sinh trong Đại Đạo hãy noi theo Đại Đạo mà thành về cõi Thượng thiên vô cực"(11)
Thánh giáo Đức Chí Tôn:
Hay:
Trước khi "Khai Minh Đại Đạo" Ngài đã nhắc đến Thánh Tâm vào ngày 20.4 Bính Dần (31.5.1926):
"Thánh Tâm dầu phải chịu khổ trần đi nữa, thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi."(14)
Ngài chấp nhận lâm phàm nhưng chỉ chứng vào nơi trong sạch nhất của con người. "Thầy những mong ở một cõi lòng trong sạch nhứt nơi trần gian, Thầy chứng vào đó để cứu rỗi con cái của thầy trong kỳ mạt kiếp..."(15)