Giang Thành dạ cổ

Giang Thành dạ cổ
thơ
Một đoạn sông Giang Thành
Thông tin tác phẩm
Tên gốc江城夜鼓
Tác giảMạc Thiên Tứ
Triều đại sáng tácLê trung hưng
Quốc giaViệt Nam
Ngôn ngữchữ Hánchữ Nôm
Thể loạithơ
Bộ sáchHà Tiên thập vịnhHà Tiên thập cảnh khúc vịnh
Chủ đềtiếng trống canh ban đêm ở đồn Giang Thành

Giang Thành dạ cổ (chữ Hán: 江城夜鼓, có nghĩa tiếng trống đêm Giang Thành), là tên hai bài thơ của Mạc Thiên Tứ; một bằng chữ Hán được xếp trong tập Hà Tiên thập vịnh (khắc in năm 1737), và một bằng chữ Nôm được xếp trong tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh (chưa được khắc in)[1]. Cả hai bài đều nói đến tiếng trống canh ban đêm ở đồn Giang Thành thuộc trấn Hà Tiên xưa; nay thuộc huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.

Giới thiệu đề tài

[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Giang Thành bắt nguồn từ Vương quốc Campuchia, xưa người Khmer gọi sông này là Prêk Ten, vì bên cạnh nó có một thôn ấp cổ tên là Tà Ten[2]. Sông chảy vào Việt Nam theo hướng Bắc Nam, dài khoảng 23 km, rồi đổ vào vũng Đông Hồ ở thị xã Hà Tiên, trước khi ra vịnh Thái Lan.

Sông Giang Thành nối liền với kênh Vĩnh Tế, tạo thành tuyến đường thủy quan trọng từ thị xã Châu Đốc đến thị xã Hà Tiên. Nó cũng góp phần đưa nước ngọt từ sông Hậu về tỉnh Kiên Giang phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Chỗ sông Giang Thành và kênh Vĩnh Tế gặp nhau gọi là ngã ba Giang Thành; và đây chính là một thắng cảnh của trấn Hà Tiên xưa, mà Mạc Thiên Tứ đã chọn làm đầu đề.

Thời Mạc Thiên Tứ cai quản trấn Hà Tiên, ông đã cho xây dựng ở Giang Thành một lũy đất dài 17 km, rộng khoảng 1m; chạy dài từ bờ sông đến chân núi Châu Nham, và cho đặt vài đồn canh phòng nhằm ngăn chặn sự xâm lấn của quân Chân Lạp dưới thời vua Nặc Bồn...

Giới thiệu thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chữ Hán

[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyên tác:
江城夜鼓
天風迴繞凍雲高,
鎖鑰長江將氣豪。
一片樓船寒水月,
三更鼓角定波濤。
客仍竟夜鎖金甲,
人正干城擁錦袍。
武略深承英主眷,
日南境宇賴安牢。
Phiên âm Hán-Việt:
Giang Thành dạ cổ
Thiên phong hồi nhiễu đống vân cao,
Toả thược trường giang tương khí hào.
Nhất phiến lâu thuyền hàn thủy nguyệt,
Tam canh cổ giác định ba đào.
Khách nhưng cánh dạ tỏa kim giáp,
Nhân chính can thành ủng cẩm bào.
Vũ lược thâm thừa anh chủ quyến,
Nhật Nam cảnh vũ lại an lao.

Bài chữ Nôm

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài này nằm trong tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, gồm một khúc vịnh dài 36 câu, và kết thúc bằng một bài thơ Đường luật như sau:

Trống quân Giang thú nổi oai phong,
Nghiêm gióng đòi canh ỏi núi sông.
Đánh phá mặt gian người biết tiếng,
Vang truyền lệnh sấm chúng nghiêng lòng.
Phao tuôn đã thấy yên bao vạc,
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông.
Thỏ lụn sớm hầu trưa bóng ác,
Tiếng xe sầm sạt mới nên công.

Lời bình

[sửa | sửa mã nguồn]
Kênh Hà Giang ở huyện Giang Thành ngày nay

Bài Giang Thành dạ cổ này sóng đôi với bài Tiêu Tự thần chung, thi sĩ Đông Hồ giải thích thâm ý của tác giả như sau: Ngoài việc để "tiếng chuông" chùa Tiêu đối lại với "tiếng trống" ở đồn Giang Thành; Mạc Thiên Tứ còn muốn nói lên rằng: một cảnh biểu thị cho đạo đức là chùa chiền, một cảnh biểu thị cho ý thức quân sự là đồn lũy.

Toàn thể hai bài đều tả tiếng trống canh ban đêm ở một đồn thú bên sông. Nhờ tiếng trống này mà đối phương không dám xâm lấn cõi bờ, giúp cho nước nhà được yên ổn, an vui.

Bình riêng cho bài Hán thi, Đông Hồ viết: Nửa bài trên tả tiếng vang động của trống mõ, khí thế hùng mạnh của quân lính; nửa bài dưới kể công lao của những người tướng sĩ, đem thân ra chống đỡ cho biên thùy được yên ổn, triều đình được vững vàng. Qua đây, tác giả còn có ý muốn kể công của mình đối với chúa NguyễnĐàng Trong...[3]

Tài liệu liên quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Trích Tuy Tĩnh tử tạp ngôn của An Tây mưu lược tướng Doãn Uẩn (1795-1850):

Mùa thu năm ngoái, ta vâng kiếm lệnh của nhà vua đi dẹp giặc cỏ ở nơi sơn cùng thủy tận, nhân đó có dịp tới Hà Tiên. Cảnh vẫn còn đó mà người xưa đâu tá? Vừa rời khỏi yên ngựa, áo vẫn nồng khói đạn, lòng vẫn nặng trĩu gươm lệnh, chưa kịp nhắp chén rượu tẩy trần, ta đã hạ lệnh cho tướng sĩ mau dâng lên Hà Tiên thập cảnh đề của cố Mạc tướng công...
Mùa thu, nửa đêm, trời không trăng sao...Ta quên ăn quên ngủ đọc liền một mạch. Mắt có nhìn thấy cảnh vật đâu, nhưng qua thơ Mạc tướng công, cảnh vật cứ như hiển hiện trước mắt mình. Bây giờ là nửa đêm chăng, ta không nhớ kỹ nữa vì thơ và rượu làm người say ngầy ngật, ta đương trầm ngâm đọc "Trống đêm ở Giang Thành" của Mạc tướng công trong thư phòng của chính người xưa. Cũng chính bấy giờ, từ đồn Giang Thành, trống quân báo giặc tới bỗng thúc lên từng hồi... Ta vốn cúc cung tận tụy vì mệnh vua, vội tiếc rẻ gài thơ hay vào bao gươm lệnh, rồi cùng tướng sĩ lên mình ngựa xông pha vào chốn lằn tên mũi đạn mà dẹp tan bọn giặc cỏ ngu si mê cuồng...
...Tiệc rượu khao quân cử ngay trước trận, ngay bên gò đống xác giặc. Tướng sĩ nói:
- Rượu ngon. Giá có đồ nhắm thì tuyệt...
Sực nhớ, ta cười ha hả, rút bài thơ hay trong bao gươm lệnh ra sang sảng nói:
- Thức nhắm đây.
Rồi sang sảng đọc lớn bài "Trống đêm ở Giang Thành" của Mạc tướng công. Tướng sĩ ngồi im phăng phắc lặng nghe quên cả rượu trước mắt và "đồ nhắm" ở đâu đâu.
Đọc xong, ta nói: thơ hay phải nói cái thực, đã là thực thì thành thơ hay ngay! Đó, ta và các người, những cái thực, đang là bài thơ hay mà người xưa miêu tả...

Giới thiệu đoạn văn trên, nhà văn Trần Thanh Giao viết:

Có lẽ không có lời phẩm bình nào về thơ Mạc Thiên Tích độc đáo như lời phẩm bình này ![4]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh có sau Hà Tiên thập vịnh (1737), và chưa được khắc in. Bản hiện nay do thi sĩ Đông Hồ sưu tập được.
  2. ^ Theo Trương Minh Đạt, thì sau này Tà Ten biến âm thành Hà Tiên, chứ không có cô tiên nào xuống tắm sông như sách xưa đã ghi (theo Nghiên cứu Hà Tiên, Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn hành, 2008, tr. 30).
  3. ^ Theo Văn học Hà Tiên, tr. 24 và 216.
  4. ^ [1][liên kết hỏng]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Hà Tiên thập vịnh
Kim Dữ lan đàoBình San điệp thúyTiêu Tự thần chungGiang Thành dạ cổThạch Động thôn vânChâu Nham lạc lộĐông Hồ ấn nguyệtNam Phố trừng baLộc Trĩ thôn cưLư Khê ngư bạc
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan