Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh (chữ Nho: 河仙什景曲詠), hay Hà Tiên Quốc âm thập vịnh (河仙國音什詠) tức Vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên bằng Quốc âm, là tên một tập thơ chữ Nôm do Mạc Thiên Tứ (1718-1780) sáng tác tại Hà Tiên (Việt Nam).
Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, đã được thi sĩ Đông Hồ phát hiện và công bố vào năm 1960. Theo ông, thì mười bài thơ Nôm trong thi phẩm này, hầu hết đều theo vần và đầu đề của mười bài thơ Hán, nên rất có thể Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được tác giả làm sau khi tập thơ chữ Hán là Hà Tiên thập vịnh đã cơ bản hoàn thành (khoảng 1736).
Lý giải vì sao, những danh sĩ đương thời như: Nguyễn Cư Trinh, Lê Quý Đôn, và người sau thời đó là Trịnh Hoài Đức, cũng không hề nhắc đến tên thi phẩm; Đông Hồ cho biết có thể vì lúc bấy giờ văn chương Nôm chưa được coi trọng; và còn vì Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh chưa được khắc in.[1]
Mặc dù vậy, nhờ những người dân ở Hà Tiên thuộc lòng; nhờ Đông Hồ bỏ công tìm tòi, sao chép, bổ khuyết và chú thích; mà Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh mới chính thức có mặt trên thi đàn và có được diện mạo khá trọn vẹn như ngày nay.[2]
Ban đầu, tập thơ có tên là Hà Tiên Quốc âm thập vịnh, nhưng sau khi sưu tầm và chỉnh lý xong, Đông Hồ xét thấy cái tên này không ổn. Ông giải thích: Bởi nó là một khúc vịnh thể lục bát gián thất, chia làm 10 đoạn. Mỗi đoạn nói về một cảnh, và kết đoạn đó bằng một bài thơ Nôm Đường luật. Cuối cùng có một bài luật Nôm làm lời tổng vịnh mười cảnh, nhắc lại tên mười cảnh và vị trí mười cảnh có liên quan với nhau. Vần thơ lục bát và vần thơ luật, trên dưới vẫn cắn liền nhau; 334 câu lục bát gián thất cùng 88 câu của 11 bài Đường luật, tất cả là 422 câu liên ngâm không gián đoạn. Số câu này tương đương với khúc Chinh phụ ngâm (412 câu), và dài hơn khúc Cung oán ngâm khúc (356 câu). Cứ theo thể tài và thể thức đó, thì nên đề là Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh là phải, cũng như trước đó, đã có Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải. Đây là lối khúc vịnh cổ, cũng như các ngâm khúc, thuộc về thể văn thịnh hành thời cuối Lê.[3]
Trước đây, vào năm 1970, trong tập sách nhỏ có nhan đề là Hà Tiên thập cảnh và Đường về Hà Tiên; hai tác giả là Đông Hồ và Mộng Tuyết, sau đoạn dẫn giải như trên, đã nói thêm hai ý:
Lấy đoạn cuối bài Châu Nham lạc lộ làm thí dụ:
Thể theo ý này, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được phân bố như sau:
Cuối tập, là một bài thơ Đường luật có tựa đề Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh.
Do chung đề tài với Hà Tiên thập vịnh, nên nội dung Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh cũng không khác mấy. Nghĩa là, tác giả (Mạc Thiên Tứ) chọn và đặt tên cho mười đầu bài, ngoài việc đề vịnh danh thắng; họ Mạc còn có dụng ý tuyên truyền thế lực của mình, phô trương sự phồn thịnh nơi mình cai quản, đồng thời còn để nói lên chí khí, hoài bão và tâm sự của mình.
Sau đây là bài Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh nằm ở cuối tập. Nó được xem như là một thư mục, một bản tổng kết mấy nét chính có trong tập thơ:
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh được ghi nhận như sau:
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì trong các tác phẩm của Mạc Thiên Tứ còn lưu lại, có lẽ là tập thơ này là đáng chú ý hơn cả. Nội dung tập thơ cũng có phần giống với Hà Tiên thập vịnh chữ Hán, nhưng do nói tiếng nói trực tiếp của dân tộc nên tình cảm biểu hiện thoải mái tự nhiên hơn, lòng tự hào về đất nước cũng có nét khởi sắc hơn.
Đặc biệt, thơ Nôm của ông bình dị, rất gần ngôn ngữ của quần chúng, mà vẫn không kém phần trau chuốt. Mặc dù có nhiều từ cổ, có những từ ngữ của địa phương miền Nam, lại gieo vần ở chữ chữ thứ ba câu thất đầu; nhưng những vần thơ lục bát gián thất của Mạc Thiên Tứ vẫn óng ả, duyên dáng, cũng như những bài luật Nôm của ông tuy cổ kính mà vẫn tươi tắn sinh động, không khác mấy với thơ văn đương thời thịnh hành ở Đàng Ngoài. Đó là lý do khiến cho thơ Nôm của ông phổ biến rộng rãi trong nhân dân địa phương lúc bấy giờ và vẫn tồn tại trong trí nhớ của nhiều người sau gần ba thế kỷ.[6]
Xét khía cạnh khác, thi sĩ Đông Hồ viết:
Diễn giải thêm ý của Đông Hồ, trong một bài viết của GS. Lê Đình Kỵ có đoạn:
Bởi những giá trị có trong thi phẩm này, đã gợi ý cho Nguyễn Cư Trinh sáng tác "Quảng Ngãi thập nhị cảnh".