Bài này có liệt kê các nguồn tham khảo và/hoặc liên kết ngoài, nhưng nội dung trong thân bài cần được dẫn nguồn đầy đủ bằng các chú thích trong hàng để người khác có thể kiểm chứng. (tháng 5 năm 2020) |
Giao tiếp qua máy tính trung gian[1], còn được gọi là CMC (viết tắt của Computer Mediated Communication) được định nghĩa là bất kỳ giao tiếp nào của con người xảy ra thông qua việc sử dụng hai hoặc nhiều thiết bị điện tử. Mặc dù thuật ngữ này thường được dùng để chỉ những phương thức liên lạc xảy ra thông qua các định dạng qua máy tính (ví dụ: nhắn tin tức thời, email, phòng trò chuyện, diễn đàn trực tuyến, dịch vụ mạng xã hội), nó cũng được áp dụng cho các hình thức tương tác dựa trên văn bản khác như nhắn tin văn bản. Nghiên cứu về CMC tập trung chủ yếu vào các hiệu ứng xã hội thông qua các công nghệ truyền thông hỗ trợ máy tính khác nhau trong bối cảnh thế giới bước vào ngưỡng cửa cách mạng công nghiệp 4.0 với những thay đổi triệt để cách chúng ta sống và làm việc.[2]
Giao tiếp qua máy tính có thể được chia thành hai dạng: đồng bộ và không đồng bộ.
Các học giả từ nhiều lĩnh vực nghiên cứu thường có góc nhìn khác nhau về truyền thông qua trung gian máy tính (CMC). Nhiều người sử dụng phương pháp xã hội học đối với CMC để xem xét cách con người sử dụng máy tính (hoặc phương tiện kỹ thuật số) để quản lý tương tác giữa các cá nhân, hình thành dấu ấn riêng biệt, đồng thời hình thành và duy trì các mối quan hệ. Các nghiên cứu này thường tập trung vào sự khác biệt giữa giao tiếp trực tuyến và giao tiếp ngoài đời thực, mặc dù phần lớn đang hướng tới quan điểm rằng CMC nên được ứng dụng nhiều hơn trong cuộc sống hàng ngày. Một nhánh khác của nghiên cứu CMC lại xem xét việc sử dụng các tính năng ngôn ngữ như biểu tượng cảm xúc hoặc bộ thuật ngữ, các quy tắc và phong cách tổ chức nói chuyện. Nghiên cứu ngôn ngữ trong các bối cảnh này thường dựa trên văn bản và đôi khi được gọi là "phân tích diễn ngôn qua máy tính".[3]
Cách con người giao tiếp trong các môi trường chuyên nghiệp, xã hội và giáo dục rất khác nhau, tùy thuộc vào không chỉ môi trường mà còn cả phương thức giao tiếp được áp dụng, trong trường hợp này là thông qua máy tính hoặc các công nghệ thông tin và truyền thông hỗ trợ khác (CNTT-TT).
Các hình thức phổ biến của CMC bao gồm e-mail, video, âm thanh hoặc trò chuyện văn bản và Weblog (blog) cũng đã trở nên phổ biến bởi việc trao đổi dữ liệu RSS tốt hơn đã cho phép người dùng trở thành "nhà sáng tạo nội dung" của riêng họ... Các hình thức này đang thay đổi nhanh chóng và ngày càng đổi mới với sự phát triển của các công nghệ sáng tạo hiện đại trong đời sống hàng ngày của thế hệ "digital native".
Giao tiếp qua trung gian máy tính có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh khác nhau của sự tương tác bao gồm cả việc hình thành dấu ấn cá nhân, trao đổi nhóm, tính hỗ trợ và đặc biệt là việc hình thành mối quan hệ. CMC được kiểm tra và so sánh với các phương thức truyền thông khác thông qua một số khía cạnh được cho là phổ biến đối với tất cả các hình thức giao tiếp bao gồm tính đồng bộ, tính bền vững hoặc "khả năng lưu trữ" và ẩn danh. Sự kết hợp của các đặc điểm này với các hình thức giao tiếp khác nhau sẽ rất khác nhau. Ví dụ, tin nhắn tức thời thực chất là đồng bộ nhưng không liên tục, vì người ta sẽ mất tất cả nội dung khi đóng hộp thoại trừ khi người ta đã thiết lập nhật ký tin nhắn hoặc đã sao chép thủ công cuộc hội thoại đó. Mặt khác, e-mail và bảng tin có độ đồng bộ thấp do thời gian phản hồi khác nhau, nhưng tính bền vững cao do tin nhắn gửi và nhận đều được lưu lại. Bên cạnh đó, một số thuộc tính tạo nên sự khác biệt của CMC so các phương tiện khác cũng bao gồm tính nhất thời, tính đa phương thức và tính tự kiểm soát các nội dung. CMC có thể khắc phục các giới hạn về không gian và thời gian của các hình thức giao tiếp khác, do đó cho phép sự tương tác giữa mọi người dù không chia sẻ trong cùng một không gian. Nghiên cứu chỉ ra rằng, phương thức giao tiếp mà mọi người chọn để giao tiếp sẽ ảnh hưởng đến mức độ mà người đó muốn tiết lộ những thông tin cá nhân. Tự tiết lộ là bất kỳ giao tiếp nào về thông tin cá nhân, suy nghĩ và cảm giác có liên quan đến việc hình thành và duy trì mối quan hệ giữa các cá nhân. CMC được xác định mức độ tự tiết lộ cao trong cuộc trò chuyện và điều này trái ngược với giao tiếp "mặt đối mặt"[4]. Điều này một phần là do tính ẩn danh trực quan của phương thức giao tiếp qua máy tính và sự vắng mặt của những đặc điểm trong giao tiếp phi ngôn ngữ - ngoại hình, biểu cảm nét mặt, tư thế, cử chỉ đã làm giảm mối quan tâm về những khó khăn khi chia sẻ quan điểm và thông tin cá nhân của người dùng. Theo mô hình giao tiếp siêu cá nhân hóa của Walther, (1996), giao tiếp qua máy tính có giá trị trong việc cung cấp một cuộc giao tiếp tốt hơn và tạo ấn tượng ban đầu tốt hơn vì trong CMC[5], ấn tượng đầu tiên không dựa trên các yếu tố vật lý, mà thay vào đó dựa vào thông tin và tính cách. Hơn nữa, Ramirez và Zhang (2007) chỉ ra rằng giao tiếp qua máy tính cho phép sự gần gũi và thu hút giữa hai cá nhân hơn là giao tiếp mặt đối mặt truyền thống.[6]
Khả năng quản lý hình ảnh trực tuyến, lập kế hoạch tự trình bày và cơ hội tự kiểm duyệt cùng các kỹ năng khác đã góp phần vào năng lực trong giao tiếp qua trung gian máy tính. Trên thực tế, có một sự tương đồng đáng kể về các kỹ năng trong tương tác qua máy tính và tương tác trực diện mặc dù có những khác biệt. Tính ẩn danh, quyền riêng tư và tính bảo mật phụ thuộc nhiều vào bối cảnh và chương trình cụ thể đang được sử dụng hoặc trang web đang được truy cập. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này đều thừa nhận tầm quan trọng của việc xem xét ý nghĩa tâm lý và xã hội của các yếu tố này bên cạnh các "hạn chế" về mặt kỹ thuật[7]
Sự phát triển đột biến của công nghệ là một sự thúc đẩy cho các cá nhân thể hiện quan điểm thông qua các nhóm thảo luận, các diễn đàn trên nền tảng web hay còn được biết đến là CMC. Những nhóm, diễn đàn này cho phép sự tương tác, trao đổi và giao tiếp trực tiếp giữa các cá nhân người tiêu dùng muốn chia sẻ trải nghiệm khách hàng và ý kiến của họ lên các sản phẩm. Các kiểu giao tiếp như vậy được biết đến là hình thức giao tiếp ngang hàng (P2P).[14]
Giao tiếp ngang hàng (P2P) có thể ảnh hưởng đến ý kiến của khách hàng và các khách hàng tiềm năng, và các nhà tiếp thị đang bắt đầu xem các trang web đó là hữu ích trong việc thu thập thông tin về nhận thức của khách hàng cũng như xác định các chủ đề thảo luận. Một số tổ chức tự tạo ra các cộng đồng trực tuyến để tạo mục đích là hiểu rõ hơn về khách hàng của họ hoặc tạo các bài viết về những vấn đề liên quan đến cách sử dụng sản phẩm hoặc các mẹo để người dùng có thể tạo mối liên kết với khách hàng. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này đặc biệt quan trọng trong việc hiểu biết được khách hàng muốn được kết nối như thế nào hoặc là hiểu thêm về các điểm chung của khách hàng và tổ chức. Hình thức đó cũng chính là cách sử dụng công nghệ để truyền thông nội bộ khách hàng và để tìm hiểu rõ điều này có ảnh hưởng gì đến tiếp thị số.
Các công ty bắt đầu thấy được nhiều lợi ích từ Chatbot có thể kế đến như tiết kiệm được chi phí, cung cấp dịch vụ tốt hơn và cải thiện vị thế cạnh tranh.
Vào thời đại ngày nay, chatbot chủ yếu đóng vai trò tư vấn hoặc trợ giúp với các giao dịch tương đối đơn giản với mức độ thông minh thấp nhưng chúng được dự đoán sẽ phát triển mạnh và trở thành điểm chạm đầu tiên trong môi trường hậu mãi, chăm sóc khách hàng và tiếp thị trong tương lai.
Sự phát triển ngày càng mạnh của truyền thông qua máy tính trung gian đã giúp kết nối với mọi người trên toàn cầu cùng sự gia tăng nhanh chóng của công nghệ truyền thông đã giúp việc giao tiếp xã hội trở nên dễ dàng hơn. Chính vì lý do đó, công nghệ này cũng đã giúp các doanh nghiệp không chỉ khả năng giao tiếp ở cấp độ toàn cầu hóa mà còn có thể cắt giảm một số chi phí trong hoạt động kinh doanh. Theo Rud (2009), nhiều công ty đang tuyển dụng các tài năng kinh doanh và kỹ thuật hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới và trang bị cho họ hầu như các kỹ năng. Các doanh nghiệp và tổ chức đang đầu tư vào các hình thức công nghệ truyền thông khác nhau để kết nối với đồng nghiệp, đối tác, khách hàng và các tổ chức khác ở cấp độ quốc tế. Hai hình thức công nghệ truyền thông mà một loạt các doanh nghiệp và tổ chức thường tham gia là hội nghị mạng và hội nghị truyền hình. Hội nghị mạng là hội nghị kinh doanh được trung gian điện tử thông qua mạng máy tính và hội nghị truyền hình cho phép doanh nghiệp hoặc tổ chức kết nối và cộng tác với khả năng cho phép chia sẻ thông tin và tệp qua cuộc gọi video.[16]
Các doanh nghiệp thường dựa vào một số yếu tố khi đánh giá các cuộc họp từ xa bao gồm: khả năng chia sẻ thông tin thông qua các cuộc họp định kỳ, những người tham gia có thể chú ý nhiều hơn đến những gì đang được truyền đạt và phương pháp này hiệu quả hơn so với việc sắp xếp chuyến đi cho một cuộc họp gặp mặt trực tiếp. Hội nghị truyền hình có rất nhiều lợi thế, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số thách thức. Ngày nay, bản chất công nghệ kỹ thuật hiện đại và điều kiện toàn cầu hóa kinh doanh đã đưa ra những thách thức giao tiếp, cụ thể là thông qua việc giao tiếp trung gian sẽ khó diễn giải biểu cảm khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể. Bên cạnh đó, việc thiếu các tín hiệu phi ngôn ngữ này có thể hạn chế giao tiếp và khiến mọi người khó chịu.
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ kỹ thuật phát triển vượt bậc khi có rất nhiều điều được chia sẻ phổ biến rộng rãi cho bất kỳ ai đang sử dụng máy tính. Có thể nói, truyền thông qua trung gian máy tính đã mở ra cánh cửa toàn cầu hóa cho phép sự kết nối phổ biến trên toàn thế giới và hỗ trợ rất nhiều cho việc kinh doanh.
Đặc điểm khác của giao tiếp qua trung gian máy tính thông qua tiếp thị điện tử (E-Marketing) là khái niệm hiện diện (telepresence) đều đã được đại đa số cả người bán và người tiêu dùng chấp nhận. Mỗi cá thể như là một nhận dạng ảo, có thể xuất hiện ở bất kì đâu trên hệ thống mạng của thế giới do đó lợi ích của người bán và người tiêu dùng sẽ vượt xa qua những lằn ranh biên giới, danh tính hoặc đặc điểm cá nhân.
Kết luận thứ hai là truyền thông qua trung gian máy tính có thể hợp nhất các cá nhân trong hoạt động tiếp thị điện tử. Trong kỉ nguyên truyền thông hội tụ như hiện nay, tùy theo từng nền văn hóa, các không gian mạng sẽ được định nghĩa bằng tên miền và mở rộng ra các nền văn hóa từ đó đưa truyền thông qua trung gian máy tính trở thành một phần của giao tiếp hàng ngày.
Kết luận thứ ba là giao tiếp sử dụng giao tiếp qua trung gian máy tính có nhiều lợi thế. Một trong số đó là người bán có thể tiếp cận rộng rãi người tiêu dùng tương lai của họ. Phương tiện truyền thông xã hội không chỉ được sử dụng để trao đổi ý tưởng văn hóa, chính trị, kinh tế mà còn về vấn đề kinh doanh. Giao tiếp qua không gian mạng đã thay thế giao tiếp giữa các cá nhân về giao tiếp mặt đối mặt. Một mối quan hệ đời thường sẽ không còn thực sự tồn tại mà nó chỉ diễn ra trên mạng. Giao tiếp qua trung gian máy tính giúp một số người bị hạn chế bằng lời nói, như thiếu tự tin để hỗ trợ cho mọi người sử dụng ngôn ngữ một cách dễ nhất, v.v.
Trong quá khứ, các nhà tiếp thị muốn quảng cáo cho sản phẩm của mình cho đại chúng thì phải cần tới sự trợ giúp của các đơn vị phát sóng, công ty truyền thông nhưng trong kỉ nguyên hiện tại với sức mạnh của Internet, mọi người đều có thể tự quảng bá cho sản phẩm của mình thông qua các phương tiện như trang web hay mạng xã hội, qua nhiều hình thức như đăng bài, phát trực tiếp (livestream). Dựa trên nền tảng của CMC và sự không giới hạn về không gian, thời gian của Internet, mọi vấn đề đã trở nên cực kì đơn giản đối với các nhà tiếp thị từ các doanh nghiệp lớn đến nhỏ hay đơn giản chỉ là một cá nhân kinh doanh online.
CMC đã thay đổi cách mà người bán và người mua tương tác với nhau, trong đó truyền thông được coi là kết quả của sự sáng tạo của con người và người tạo ra truyền thông với mục đích tạo điều kiện cho họ thực hiện các hoạt động của mình mà không bị giới hạn về thời gian và không gian từ đó truyền thông được coi là đã mở rộng sự nhu cầu của con người.
|url=
(trợ giúp).
|tựa đề=
tại ký tự số 82 (trợ giúp)