Giao tiếp, hay truyền thông, thường được định nghĩa là việc truyền tải thông tin. Thuật ngữ này cũng có thể đề cập đến thông điệp được truyền đạt thông qua việc truyền tải này hoặc lĩnh vực nghiên cứu chúng. Có nhiều bất đồng về định nghĩa chính xác của nó.[1][2] John Peters lập luận rằng sự khó khăn trong việc định nghĩa giao tiếp xuất phát từ thực tế rằng giao tiếp vừa là một hiện tượng phổ quát vừa là một lĩnh vực cụ thể của nghiên cứu học thuật trong các học viện.[3] Một chiến lược định nghĩa liên quan đến việc hạn chế những gì có thể được đưa vào thể loại của giao tiếp (ví dụ: yêu cầu "ý định có ý thức" để thuyết phục).[4] Theo logic này, một định nghĩa có thể có về giao tiếp là hành động phát triển ý nghĩa giữa các thực thể hoặc nhóm thông qua việc sử dụng các dấu hiệu, biểu tượng và quy ước ký hiệu mà các bên đều hiểu.
Có một sự khác biệt quan trọng giữa giao tiếp bằng lời nói, diễn ra thông qua việc sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ, thông qua cử chỉ hoặc nét mặt. Các mô hình giao tiếp cố gắng đưa ra lời giải thích chi tiết về các bước và các bên khác nhau có liên quan. Một mô hình có ảnh hưởng được đưa ra bởi Claude Shannon và Warren Weaver, những người lập luận rằng động cơ giao tiếp thúc đẩy người gửi soạn một tin nhắn, sau đó được mã hóa và truyền đi. Sau khi đến đích, nó sẽ được người nhận giải mã và diễn giải.[5][6][7] Giao tiếp được nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau. Lý thuyết thông tin nghiên cứu về việc định lượng, lưu trữ và truyền thông tin nói chung. Các nghiên cứu về giao tiếp liên quan đến giao tiếp của con người, trong khi khoa học về giao tiếp sinh học quan tâm đến bất kỳ hình thức giao tiếp nào giữa các sinh vật sống.
Giao tiếp có thể được thực hiện trực quan (thông qua hình ảnh và ngôn ngữ viết) và thông qua thính giác, xúc giác/xúc giác (ví dụ: chữ nổi hoặc các phương tiện vật lý khác), khứu giác, điện từ hoặc phương tiện sinh hóa (hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng). Giao tiếp của con người là duy nhất trong việc sử dụng rộng rãi ngôn ngữ trừu tượng.
Giao tiếp là hành động truyền tải ý đồ, ý tứ của một chủ thể (có thể là một cá thể hay một nhóm) tới một chủ thể khác thông qua việc sử dụng các dấu hiệu, biểu tượng và các quy tắc giao tiếp mà cả hai bên cùng hiểu.
Các bước chính vốn có của tất cả các hình thức giao tiếp là:[8]
Các kênh giao tiếp có thể là thị giác, thính giác, xúc giác/chạm (ví dụ: Chữ Braille hay các phương thức vật lý khác), khứu giác, điện từ, hoặc hóa sinh.
Giao tiếp của con người độc đáo ở việc sử dụng ngôn ngữ trừu tượng một cách rộng rãi. Sự phát triển của văn minh liên quan mật thiết với sự tiến bộ về viễn thông hay giao tiếp từ xa.
Xét trên hoạt động giao tiếp trong xã hội ta có thể chia thành ba loại:
Xét về hình thức tính chất giao tiếp có bốn loại:
Ngày này khi nói đến giao tiếp Quốc tế, chúng ta thường nghĩ đến giao tiếp bằng tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ Quốc tế, được sử dụng rộng rãi cả về mặt số người sử dụng cũng như các lĩnh vực sử dụng.
Nguyên tắc trong giao tiếp là những tư tưởng chủ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà người thực hiện giao tiếp phải tuân thủ một cách triệt để. Các nguyên tắc trong giao tiếp gồm:
Phương tiện giao tiếp là tất cá yếu tố được dùng để thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, mối quan hệ và những tâm lý khác trong một cuộc giao tiếp. Phương tiện giao tiếp gồm hai nhóm: ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Những yếu tố có liên quan đến ngôn ngữ gồm:
Những biểu hiện của nhóm phi ngôn ngữ gồm: