Hiroshima Toyo Carp

Hiroshima Toyo Carp
広島東洋カープ
Logo Phù hiệu mũ
Thông tin
GiảiGiải bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản
Central League (1950 - hiện tại)
Vị tríMinami-ku, Hiroshima, Nhật Bản
Sân nhàSân vận động Mazda
Năm thành lập5 tháng 12 năm 1949; 75 năm trước (1949-12-05)
Biệt danhCarp (鯉, koi, cá chép)
Vô địch Central League9 lần (1975, 1979, 1980, 1984, 1986, 1991, 2016, 2017, 2018)
Vô địch Nippon Series1979, 1980, 1984
Tên cũ
  • Hiroshima Carp (1950–1967)
Sân đấu cũ
MàuĐỏ, Trắng
         
Linh vậtSlyly
Số áo lưu niệm
Sở hữuMatsuda Hajime
Quản lýArai Takahiro
Trang chủhttps://www.carp.co.jp/
Đồng phục

Hiroshima Toyo Carp (広島東洋カープ, Hiroshima Tōyō Kāpu) là một CLB bóng chày chuyên nghiệp trực thuộc nhánh giải Central League của Giải Bóng chày Chuyên nghiệp Nhật Bản (NPB). Sân nhà của đội, Sân vận động Mazda, nằm tại Minami-ku, thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Đội vô địch Central League 9 lần, trong đó họ chiến thắng serie chung kết NPB (Nippon Series) 3 lần (1979, 1980, 1984). Họ cũng đang chịu cơn khát danh hiệu Nippon Series dài nhất ở thời điểm hiện tại.

Đội được thành lập năm 1949, một phần với mục đích tạo dựng một điểm tựa tinh thần cho người dân thành phố đang trong quá trình tái thiết sau vụ thả bom nguyên tử. Đội Carp được xem là một trong những biểu tượng cho sự hồi sinh sau chiến tranh ở Hiroshima[1]. Họ cũng là đội bóng chày chuyên nghiệp duy nhất tại châu Á mang tên địa phương xuyên suốt từ khi thành lập.

Biệt danh Carp (cá chép), do nghị sĩ Tanigawa Noboru (谷川昇) đề xuất, nhiều khả năng lấy cảm hứng từ Lâu đài Hiroshima (còn gọi là Lâu đài Cá chép) và hiện tượng cá chép bơi ngược về nguồn trên sông Ōta chảy qua thành phố[2].

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Ý tưởng thành lập một CLB bóng chày ở Hiroshima đã tồn tại ngay cả trước kế hoạch tái cơ cấu NPB của Shoriki Matsutaro. Hiroshima từ lâu đã là một địa phương mạnh về thể thao và có đam mê mãnh liệt với bóng chày. Ngay cả trước chiến tranh, tại đây đã có những trường danh tiếng trong giới bóng chày học đường như Trường trung học thương mại Hiroshima, Trường trung học cơ sở KoryoTrường trung học cơ sở Kure , và đã sản sinh ra những cầu thủ vĩ đại như Tsuruoka Hitoshi, Shiraishi KatsumiFujimura Fumio[3].

Thành lập

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1949, Giải bóng chày Nhật Bản công bố kế hoạch thay đổi cơ cấu thành một hệ thống gồm hai giải thành NPB, cũng như mở rộng số đội tham gia. Trong khi đó, thành phố Hiroshima đã trải qua 4 năm vật lộn để khôi phục sau vụ ném bom nguyên tử. Giới chức và doanh nghiệp ở tỉnh Hiroshima, dẫn đầu là chủ tờ báo Chugoku Shimbun Kawaguchi Go và cựu nghị sĩ Tanigawa Noboru, đã tiến hành vận động để lập đội tại đây trên một trong các suất mở rộng, với mục đích tạo dựng một điểm tựa tinh thần lành mạnh cho người dân trong quá trình tái thiết thành phố[4]. Đề nghị này được Giải bóng chày Nhật Bản chấp thuận để gia nhập chi giải Central League vào ngày 28 tháng 11, và lễ thành lập đội bóng đã diễn ra vào ngày 5 tháng 12 năm 1949. Ishimoto Shuichi, nguyên huấn luyện viên trưởng của Taiyo Robins, được bổ nhiệm là HLV trưởng đầu tiên của CLB[5].

Trong quá trình soạn thảo kế hoạch thành lập, một số cái tên như Bears, Rainbows, Pigeons hay thậm chí Atoms (vốn rất nhạy cảm), đã được đưa ra để xét thông qua biệt danh cho đội. Tuy nhiên nhóm sáng lập đã thông qua biệt danh Carp (cá chép) theo đề nghị của Tanigawa, lấy cảm hứng từ di tích tiêu biểu của thành phố: Lâu đài Hiroshima hay còn gọi là Lâu đài Cá chép, nơi hàng năm chứng kiến cá chép bơi về nguồn trên sông Ōta[6], bấy giờ đang là một đống đổ nát trước khi được phục dựng năm 1958.

Những năm đầu khó khăn (thập niên 1950-1960)

[sửa | sửa mã nguồn]

Lấy sân vận động của tỉnh làm sân nhà, buổi đầu hoạt động của đội Carp đầy rẫy những khó khăn.

Kế hoạch thu nạp các cầu thủ đội hai từng dưới trướng tại Robins của Ishimoto đổ bể[7], CLB gặp rất nhiều khó khăn để chiêu mộ đội hình đầu tiên. Ishimoto phải đích thân đi chiêu mộ mới tập hợp được một dàn cầu thủ sứt mẻ, trong đó đáng chú ý duy nhất là cầu thủ sân trong huyền thoại Shiraishi Katsumi, một người con của Hiroshima trở về xây dựng đội bóng quê hương. Kết thúc mùa giải đầu tiên 1950, CLB đứng cuối tại Central League, ít hơn đội đầu bảng Shochiku Robins 59 trận thắng[8]. Điểm tích cực duy nhất đến từ việc chiêu mộ tay ném chủ công trẻ Hasegawa Ryohei, và Shiraishi lọt vào Đội hình xuất sắc nhất mùa giải. Mùa giải 1951 cũng không khá hơn, thậm chí CLB chỉ hoàn thành việc thi đấu 99 trong tổng số 120 trận đấu của mùa giải[9].

Trong số những vấn đề lớn nhất mà CLB Carp gặp phải là khó khăn về tài chính. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là quy định phân bổ doanh thu bán vé của NPB thời bấy giờ trong đó đội thắng trận được nhận 70% doanh thu, bất kể trên sân nhà hay sân khách. Là đội bóng không có một doanh nghiệp chủ quản có tiềm lực tài chính dồi dào chống lưng, các thất bại buổi đầu càng khiến đội bóng lao đao trong việc duy trì hoạt động cũng như đảm bảo khoản phí thành viên 3 triệu yên tại giải, cũng như tình trạng nợ lương các cầu thủ xuất hiện[10]. CLB đã tìm nhiều doanh nghiệp để mời tiếp quản như Kotobukiyacông ti Bia Asahi. Thậm chí CLB bị giải gây áp lực phải sáp nhập với Taiyo Whales, tuy nhiên đã vấp phải sự phản đối của dư luận, dẫn đầu là HLV Ishimoto, trước việc đội bóng bỏ tên Hiroshima và chuyển tới Shimonoseki, Yamaguchi dưới trướng Taiyo[8].

HLV Ishimoto sau đó đã thành lập hội cổ động viên (được hợp thức hóa ngày 29/7/1951) với mục đích vận động gây quĩ hỗ trợ duy trì hoạt động của đội Carp, và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ người dân thành phố Hiroshima[11]. Tính đến hết mùa giải 1951, số lượng thành viên đạt 13.000 người, và tổng số tiền gây quĩ được từ các hoạt động giao lưu, bán đồ, hay nổi bật nhất là hoạt động "thùng sake quyên góp", đạt 4,4 triệu yên (tương đương 2,86 tỉ yên thời giá 2024), giúp CLB tạm vượt qua áp lực duy trì hoạt động[12].

Mùa giải sinh tử 1952

[sửa | sửa mã nguồn]

Với việc Nishi-Nippon Pirates sáp nhập vào Nishitetsu Clippers, hạ số đội tại chi giải Central League xuống 7 đội và gây khó khăn trong việc xếp lịch thi đấu, ban lãnh đạo Central League đã ra quyết định sẽ khai trừ bất cứ đội nào kết thúc mùa giải 1952 với tỉ lệ thắng dưới 30%. Đây được xem là nước đi nhắm vào CLB Carp, vốn lao đao cả về thành tích lẫn tài chính trong 2 mùa giải trước đó[10].

Tình hình càng trở nên nguy cấp hơn với đội Carp, khi tay ném trụ cột Hasegawa Ryohei bị Nagoya Dragons tiếp cận và chiêu mộ vào ngày 25/12/1951 thông qua việc lách luật trong hợp đồng của Hasegawa với Carp[7]. Tuy nhiên, hợp đồng chiêu mộ trên với Dragons không được ủy viên giải thông qua, và Hasegawa trở về biên chế đội Carp.

Sau nửa đầu mùa giải tệ hại với thành tích 13 thắng, 46 thua, 2 hòa (thắng 22%), những tưởng trát khai trừ và giải thể đã định đối với Hiroshima Carp. Nhưng sang tới nửa cuối mùa giải, với sự quyết chiến của toàn đội, CLB đã giành thêm 24 trận thắng, thua 34, hòa 1, để kết thúc mùa với tỉ lệ thắng 31,6% và thoát cảnh bị khai trừ[13]. Hasegawa khi quay về đầu quân đã trở thành vị cứu tinh của Carp trước bờ vực bị khai trừ khi gồng gánh khối lượng ném khổng lồ và cùng Sugiura Ryutaro đóng góp 20 trên tổng số 37 chiến thắng của đội trong mùa giải này.

Trái ngược với Carp, Shochiku Robins bị khai trừ sau mùa giải 1952 với tỉ lệ thắng 28.8% và bị sáp nhập vào Taiyo Whales. Trong quá trình sáp nhập, một lượng lớn cầu thủ thuộc biên chế Robins, trong đó có tay đập hạng nặng Kozuru Makoto, có thể được các CLB khác chiêu mộ. Đội Carp, với ngân sách eo hẹp, đã một lần nữa phải dựa vào nguồn tiền gây quỹ quần chúng, lên tới hơn 10 triệu yên, để có thể kí hợp đồng với những cầu thủ này.

Tuy nhiên, việc NPB điều chỉnh quy định về phân bổ doanh thu bán vé trong đó đội chủ nhà được nhận ít nhất 60% đã giúp CLB cải thiện phần nào tình hình tài chính trong những năm sau đó.

Mái nhà mới và chủ mới

[sửa | sửa mã nguồn]

Kỉ nguyên "Mũ đỏ" vàng son (thập niên 1970-1980)

[sửa | sửa mã nguồn]
Bức phù điêu kỉ niệm thành tích vô địch Central League của Hiroshima Carp, tại công viên nơi từng là Sân vận động Thành phố Hiroshima

Giai đoạn đi xuống và khủng hoảng (thập niên 1990-2000)

[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn phục hưng (thập niên 2010 - đầu thập niên 2020)

[sửa | sửa mã nguồn]

3 chức vô địch Central League

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2024

[sửa | sửa mã nguồn]

Sang năm thứ hai CLB được dẫn dắt bởi HLV trưởng Arai Takahiro, mùa giải 2024 nổi bật với việc đội Carp ghi ít home run một cách bất thường: toàn đội chỉ đập được 52 home run, ít hơn tới 44 lần so với mùa trước đó.[14]. Một lí do có thể là việc bóng thi đấu ở mùa giải này được ghi nhận "ít nảy" hơn, khiến nhiều pha đập bóng mà đáng ra có thể bay qua rào lại rơi trong sân và bị chụp thành fly out, dẫn tới sụt giảm thông số tấn công, đặc biệt là home run, xảy ra trong toàn giải.

Tình trạng này mặt khác lại vô cùng có lợi cho thành tích của các tay ném, đặc biệt của đội Carp. Các tay ném chủ công thường có chỉ số mất điểm trong khoảng 3.0 giờ đây lần lượt hạ thấp được chỉ số xuống dưới 1.0, trong các tay ném hộ công đạt được sự ổn định về hiệu suất thi đấu.

Sang giai đoạn thi đấu liên giải, vốn ít có mùa đạt số trận thắng trên 50%, đội Carp bất ngờ đạt thành tích thắng đa số trận ở tất cả các serie trừ serie đối đầu với Softbank Hawks[15]

Ngày 7 tháng 6, Ohsera Daichi trở thành tay ném thứ 7 trong lịch sử CLB và thứ 102 trong lịch sử NPB ném được một trận no-hit, no-run trước đối thủ Chiba Lotte Marines.[16]

Với việc thắng trên 50% số trận liên giải, đội Carp kết thúc nửa đầu mùa giải với vị trí đầu bảng Central League.

Tuy nhiên, vào nửa cuối mùa giải sau trận giao hữu các ngôi sao, số home run và hiệu số tấn công khác tại toàn giải NPB tăng vọt trở lại. Điều này khiến đội hình tấn công của đội Carp vốn đã quen lối chơi đập bóng bỏ nhỏ và ít khả năng đập bóng đi xa, lại càng trở nên lép vế so với phần còn lại của giải. Cùng với sự sa sút của đội ngũ tay ném rất xuất sắc trước đó, điều này dẫn tới việc đội Carp thua liền 20/25 trận trong tháng 9, và rơi từ vị trí đầu bảng xuống thứ 4 thuộc nhóm cuối bảng và mất quyền dự vòng playoff[17]. Đây là thành tích trong một tháng thi đấu tệ nhất trong lịch sử CLB và ngang bằng thành tích tệ nhất toàn giải.

Các cầu thủ nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ thi đấu tại MLB

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện còn thi đấu:

Đã giải nghệ:

Các số áo được lưu niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Các số áo nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên trưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Quốc tịch Giai đoạn
Ishimoto Shuichi  Nhật Bản 1950–1953
Shiraishi Katsumi  Nhật Bản 1953–1960, 1963–1965
Monzen Masato  Nhật Bản 1961–1962
Hasegawa Ryohei  Nhật Bản 1965–1967
Nemoto Rikuo  Nhật Bản 1968–1972
Morinaga Katsuya  Nhật Bản 1972, 1974–1975
Joe Lutz  Hoa Kỳ 1975
Koba Takeshi  Nhật Bản 1975–1985
Anan Junro  Nhật Bản 1986–1988
Yamamoto Koji  Nhật Bản 1989–1993, 2001–2005
Mimura Toshiyuki  Nhật Bản 1994–1998
Tatsukawa Mitsuo  Nhật Bản 1999–2000
Marty Leo Brown  Hoa Kỳ 2006–2009
Nomura Kenjiro  Nhật Bản 2010–2014
Ogata Koichi  Nhật Bản 2015–2019
Sasaoka Shinji  Nhật Bản 2020–2022
Arai Takahiro  Nhật Bản 2023–


Các cơ sở đào tạo cầu thủ ở nước ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhằm đào tạo các ngoại binh chất lượng nhưng lương thấp hơn các hợp đồng đắt đỏ với các cầu thủ tự do từ MLB, đội Carp thành lập Học viện Bóng chày Carp tại Cộng hòa Dominica vào năm 1990, trở thành là CLB đầu tiên tại NPB thành lập cơ sở đào tạo cầu thủ ngoài Nhật Bản. Sản phẩm đầu tiên của học viện, Robinson Checo, ra mắt đội một vào năm 1995. Một số cầu thủ của học viện, tiêu biểu là Timo PérezAlphonso Soriano, sau này đã có sự nghiệp thi đấu thành công tại MLB.

Ngoài ra, CLB Carp còn có một lò đào tạo tay ném tại Quảng Đông, Trung Quốc[18].

Cơ cấu chủ sở hữu

[sửa | sửa mã nguồn]

Đa số cổ phần của đội (60%) thuộc về một nhóm cổ đông là thành viên gia tộc của nhà sáng lập hãng ô tô Mazda Matsuda Jujiro. Trong khi đó, cổ đông pháp nhân lớn nhất của đội, tập đoàn Mazda, chỉ nắm 34,2% cổ phần. Do vậy, Carp là đội bóng chày chuyên nghiệp duy nhất trong số 28 đội tại châu Á thuộc sở hữu tư nhân.

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “国際平和拠点ひろしま|システムメンテナンス”. hiroshimaforpeace.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2025.
  2. ^ Gaijin Baseball (15 tháng 12 năm 2022). “The Heartbeat of Hiroshima - A Brief History of the Hiroshima Toyo Carp”. YouTube. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2025.
  3. ^ “開局80年セレクション 〜ありがとう広島市民球場〜”. archive.fo. 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2025.
  4. ^ “広島平和記念資料館 | 展示を見る | 常設展示 | 6 広島の歩み | 6-2 広島の復興 さまざまな支援 | 6-2-2 平和記念都市建設法と復興事業の進展 | 6-2-2-3 市民球団広島カープの誕生”. hpmmuseum.jp. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2025. no-break space character trong |tiêu đề= tại ký tự số 29 (trợ giúp)
  5. ^ “『〈展示会報告〉文書と写真でたどる旧広島市民球場 -旧広島市民球場開場60年記念展示-』 - Bài tổng hợp triển lãm "Tìm lại dấu tích cựu SVĐ Thành phố Hiroshima qua tư liệu và ảnh - Triển lãm kỉ niệm 60 năm cựu SVĐ Thành phố Hiroshima." (PDF). Cục lưu trữ thành phố Hiroshima. tr. 47-53.
  6. ^ Gaijin Baseball (24 tháng 9 năm 2024), NPB Team Nicknames EXPLAINED, truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2025
  7. ^ a b Yamato, Kyūshi (1980). Lịch sử Bóng chày Nhật Bản. NXB Tạp chí Baseball.
  8. ^ a b “【3月29日】1951年(昭26) 開幕なのに試合が棚上げされたカープへの"嫌がらせ". Sponichi Annex. 9 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2025.
  9. ^ 『定本 プロ野球40年』(Ấn phẩm đặc biệt: Kỉ niệm 40 năm bóng chày chuyên nghiệp tại Nhật Bản). NXB báo Hochi Shimbun. 1976.
  10. ^ a b “『赤ヘル軍団 広島カープのすべて』(Đội quân Mũ đỏ: Tất tần tật về CLB Hiroshima Carp)”. Báo Sankei Shimbun. 1 tháng 11 năm 1975.
  11. ^ “カープと広島の絆。球団創設期の捕手が語る復興のシンボルVol.1”. web.archive.org. 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2025.
  12. ^ “新球場の夢キャッチ 今も昔も「支えたる」”. Chugoku Shimbun. 30 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2025.
  13. ^ “カープにまつわる場所を巡って、ヒロシマを学ぼう!by Peace Tourism”. web.archive.org. 9 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2025.
  14. ^ “広島東洋カープ | BASEBALL KING”. BASEBALL KING (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  15. ^ 一般社団法人日本野球機構. “試合日程・結果 | 日本生命セ・パ交流戦 2024”. NPB.jp 日本野球機構 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  16. ^ “広島東洋カープ公式サイト”. www.carp.co.jp. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  17. ^ https://www.sportschosun.com/sports/2024/09/team-that-was-expected-to-win-20586
  18. ^ Author, No (21 tháng 7 năm 2004). “Hiroshima Carp building baseball academy in China”. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2025.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Focalors đã thay đổi vận mệnh của Fontaine như thế nào?
Focalors đã thay đổi vận mệnh của Fontaine như thế nào?
Focalor là tinh linh nước trong đầu tiên được thủy thần tiền nhiệm biến thành người, trải qua sự trừng phạt của thiên lý
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Ngay từ khi bắt đầu Tensura, hẳn chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh Shizu và chiếc mặt nạ, thứ mà sau này được cô để lại cho Rimuru
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Trước tiên ta sẽ làm quen với phản ứng, khi ấn lôi + thảo sẽ tạo ra phản ứng và đưa quái vài trạng thái sinh trưởng
Công thức tính sát thương của Shenhe và Yunjin
Công thức tính sát thương của Shenhe và Yunjin
Shenhe và Yunjin có cơ chế gây sát thương theo flat DMG dựa trên stack cấp cho đồng đội, nên sát thương mà cả 2 gây ra lại phần lớn tính theo DMG bonus và crit của nhân vật khác