Hoàng Thị Nga

Hoàng Thị Nga
Chân dung Hoàng Thị Nga khoảng đầu thập niên 1930
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1903
Nơi sinh
Cầu Đơ
Mất
Ngày mất
1970
Nơi mất
Pháp
An nghỉnghĩa trang Antony
Giới tínhnữ
Gia quyến
Thân phụ
Hoàng Huân Trung
Thân mẫu
Nguyễn Thị Nhân
Anh chị em
Hoàng Cơ Bình, Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Thụy
Học vấn
Học vị
Tiến sĩ khoa học
Trường học
Trường nữ sinh tiểu học Pháp-Việt Ecole Brieux, Trường Sư phạm nữ sinh người Việt, Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Paris
Quốc tịchLiên bang Đông Dương
Thời kỳPháp thuộc

Hoàng Thị Nga (1903 - 1970) là nữ Tiến sĩ khoa học đầu tiên người Việt Nam. Bà cũng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Khoa học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[1]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Ảnh chụp trang đầu luận văn tiến sĩ của bà Hoàng Thị Nga.

Bà Hoàng Thị Nga sinh năm 1903 trong một gia đình thế gia ở làng Đông Ngạc (tục gọi là làng Vẽ hay Kẻ Vẽ), tổng Minh Cảo, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Cầu Đơ (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Tiên tổ bà là Hoàng Nguyễn Thự, thuộc một gia đình khoa bảng làng Đông Bình (nay thuộc xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), lấy vợ và lập nghiệp ở làng Vẽ, đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp khoa Đinh Mùi (1787). Thân phụ bà là Hoàng Huân Trung, Cử nhân Khoa Quý Mão (1903), sau làm đến Tri phủ Phú Thọ, trí sĩ với hàm Tổng đốc, Hội trưởng Hội Khai trí Tiến đức, dân gian gọi là Cụ Thượng Hoàng.

Xuất thân trong gia đình có truyền thống học hành, thân phụ có tư tưởng tiến bộ, thông giỏi cả Nho học lẫn Quốc ngữ, thuở nhỏ bà được cho theo học trường nữ sinh tiểu học Pháp-Việt Ecole Brieux (bấy giờ còn ở số 51 và 53 phố Jules Ferry, còn gọi là phố Hàng Trống, sau mới chuyển về số 29 phố Takou, còn gọi là phố Hàng Cót, nay là Trường THCS Thanh Quan) tại Hà Nội. Sau đó bà được cho theo học Trường Sư phạm nữ sinh người Việt (École Normale des Institutrices annamites, nay là trường Trường THCS Trưng Vương) ở phố Hàng Bài (tên chính thức là Đại lộ Đồng Khánh).

Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, bà đi dạy học ở Đáp Cầu (Bắc Ninh) một thời gian. Sau đó bà tiếp tục theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm (École Supérieure de Pédagogie), rồi sang Pháp nhập học tại Khoa Khoa học (Faculté des sciences) thuộc Đại học Paris (nay là Đại học Sorbonne) tháng 8 năm 1928 và lấy được bằng Cử nhân vào năm 1931. Ngày 19 tháng 3 năm 1935, bà bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Khoa học vật lý (Docteur ès sciences physiques) với nhan đề "Tính chất quang điện của các chất hữu cơ" (Propriétés photovoltaïques des substances organiques). Bà trở thành phụ nữ Việt Nam đầu tiên đạt được học vị Tiến sĩ khoa học.

Những hành trạng sau đó của bà không rõ. Theo các tài liệu khảo cứu, thì sau khi đạt học vị Tiến sĩ, bà về nước và đi dạy tại Trường Cao đẳng Khoa học, Viện Đại học Đông Dương. Dù là một trong những tiến sĩ khoa học hiếm hoi ở Đông Dương thời bấy giờ, nhưng vì là người bản xứ, nên bà luôn bị kỳ thị và không nhận được đãi ngộ xứng đáng từ chính quyền thuộc địa. Mãi đến ngày 15 tháng 5 năm 1945, bà mới được chính phủ Đế quốc Việt Nam bổ nhiệm làm giáo sư của trường Cao đẳng Khoa học và đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, bà được đề bạt làm hiệu trưởng trường này.[2]

Tuy nhiên, do tình hình chính trị thời cuộc, chính phủ bị xem là "bù nhìn" của học giả Trần Trọng Kim không thể đứng vững. Cách mạng tháng 8 nổ ra, chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập. Ngày 7 tháng 11 năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra nghị định truy lĩnh lương cho bà ở chức vụ giáo sư và hiệu trưởng, vốn chưa được hưởng từ lúc bà được bổ nhiệm và bà vẫn tiếp tục giữ chức vụ cũ cũng như mức lương theo quy định của chính quyền mới.[2]

Khác với thông tin của đoạn trích dẫn trên, các nhà khảo cứu cho rằng lý do bà Nga sang Pháp kỳ thực do nghị định ngày 18 tháng 2 năm 1946 của Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục Vũ Đình Hòe ban hành, cho phép các ban đại học tạm đình giảng ít lâu. Do tình trạng căng thẳng, nguy cơ bùng nổ chiến tranh Pháp tái chiếm Đông Dương, nên không lâu sau nghị định nói trên, bà đã xin nghỉ việc và sang Pháp "định cư vì việc riêng".[3]

Sau khi sang Pháp, bà sống âm thầm, hành trạng cũng không được biết đến. Theo người cháu ruột, trong gia phả rất ít thông tin về bà Hoàng Thị Nga, có thể vì bà là "nữ giới", mà theo quan niệm của người xưa là "ngoại tộc". Chỉ biết bà không lập gia đình và qua đời tại Pháp năm 1970. Ban đầu bà được an táng tại Nice. Ngày 13 tháng 9 năm 2000, di cốt bà được cải táng về nghĩa trang Antony, đường Châteney 92160 Antony (Hauts-de-Seine), trong hầm mộ của gia đình người em trai Hoàng Cơ Thụy.[3]

Quyến thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]
Thân phụ
  • Hoàng Huân Trung (1877-1950), Cử nhân Khoa Quý Mão (1903), Tri phủ Phú Thọ, hàm Tổng đốc, Hội trưởng Hội Khai trí Tiến đức, dân gian gọi là Cụ Thượng Hoàng.
Thân mẫu
  • Nguyễn Thị Nhân
Kế mẫu
  • Vũ Thị Trúc
Anh em ruột
Em cùng cha khác mẹ
Em nuôi
  • Thẩm Hoàng Tín (1909–1991), Dược sĩ, nguyên Thị trưởng Hà Nội 1950-1952

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan