Ida (phim)

Ida
Áp phích phát hành bằng tiếng Ba Lan
Đạo diễnPaweł Pawlikowski
Tác giả
Sản xuất
  • Eric Abraham
  • Piotr Dzięcioł
  • Ewa Puszczyńska
Diễn viên
Quay phim
Dựng phimJarosław Kamiński
Âm nhạcKristian Eidnes Andersen
Hãng sản xuất
Phát hành
Công chiếu
  • 7 tháng 9 năm 2013 (2013-09-07) (TIFF)
  • 11 tháng 9 năm 2013 (2013-09-11) (Ba Lan)
Thời lượng
82 phút[1]
Quốc gia
  • Ba Lan
  • Đan Mạch
  • Pháp
  • Vương quốc Anh
Ngôn ngữ
  • Tiếng Ba Lan
  • Tiếng Pháp
  • Tiếng Latin
Kinh phí$2.6 triệu[2]
Doanh thu$15.3 triệu[2]

Ida (tiếng Ba Lan: [ˈida]) là bộ phim điện ảnh chính kịch năm 2013 do Paweł Pawlikowski đạo diễn, Pawlikowski và Rebecca Lenkiewicz viết kịch bản. Bối cảnh phim ở Ba Lan năm 1962, kể về một cô gái trẻ sắp trở thành một nữ tu Công giáo. Mồ côi khi còn thơ trong suốt khoảng thời gian bị Đức chiếm đóng trong Thế chiến II, giờ cô phải gặp được dì của mình. Người dì là một cựu công tố viên của chính quyền Cộng sản và là người thân duy nhất còn sống của cô, bà đã kể cho cô rằng cha mẹ cô là người Do Thái. Hai người phụ nữ bắt đầu một chuyến đi đến vùng nông thôn Ba Lan để tìm hiểu số phận của gia đình họ.

Ngoài là một"kiệt tác nhỏ gọn"và"phim có con đường đẹp một cách kỳ lạ", bộ phim còn được cho là"chứa đựng một thế giới tội lỗi, bạo lực và đau đớn", ngay cả đối với những sự kiện lịch sử (Đức chiếm đóng Ba Lan, HolocaustChủ nghĩa Stalin) không được kể đến:"không có sự kiện nào trong số này được đề cập, nhưng có thể nói là tất cả đều được đưa vào bầu khí quyển: đất nước cảm thấy chết chóc, dân số thưa thớt".[3][4][5]

Ida đoạt giải Oscar năm 2015 dành cho phim ngoại ngữ hay nhất, trở thành bộ phim Ba Lan đầu tiên đoạt giải này.[6] Trước đó, nó cũng được European Film Academy chọn là phim hay nhất năm 2014 và British Academy of Film and Television Arts (BAFTA) chọn là phim không nói tiếng Anh hay nhất năm 2014.[7][8] Năm 2016, bộ phim được vinh danh ở vị trí thứ 55 là phim hay nhất trong thế kỷ 21, từ một cuộc bầu chọn của 177 nhà phê bình phim trên khắp thế giới.[9]

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Thu về hơn $3.8 triệu tại phòng vé Bắc Mỹ, bộ phim được mô tả là một"thành công vượt bậc", đặc biệt là đối với một bộ phim bằng tiếng nước ngoài.[10] Gần 500,000 người đã xem phim ở Pháp, biến nó trở thành một trong những bộ phim bằng tiếng Ba Lan thành công nhất từng được chiếu ở đó.[11] Bộ phim thu về gần $3.2 triệu ở Pháp, gần bằng ở Hoa Kỳ. Bộ phim đạt doanh thu $0.3 triệu ở Ba Lan, và dưới $0.1 triệu ở Đức.[2]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ida được chiếu trong phần Lời giới thiệu Đặc biệt tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2013[12] nơi mà nó đoạt giải FIPRESCI.[13] Trong những liên hoan phim khác, Ida đoạt giải Phim hay nhất tại Gdynia, Warszawa, London, Bydgoszcz, Minsk, Gijón, Wiesbaden, Kraków. Bộ phim cũng được công nhận về phần diễn xuất của Agata KuleszaAgata Trzebuchowska, và kỹ thuật thu hình (cinematography) của Ryszard Lenczewski và Łukasz Żal.

Bộ phim được Viện hàn lâm điện ảnh Ba Lan vinh danh là phim hay nhất năm 2013, thắng ở ba hạng mục khác nhau, và được đề cử thêm ở bảy hạng mục. Viện hàn lâm điện ảnh châu Âu đề cử bộ phim trong bảy hạng mục, thắng 5, gồm phim châu Âu hay nhấtGiải khán giả bầu chọn, tại Giải điện ảnh châu Âu lần thứ 27.[7] Viện hàn lâm nghệ thuật và khoa học thu hình Tây Ban Nha gọi Ida là phim châu Âu hay nhất tại Giải Goya lần thứ 29. Ở 68th British Academy Film Awards, bộ phim đã giành giải phim hay nhất không nói tiếng Anh.[8]

Tại Giải Oscar lần thứ 87, nó thắng giải phim ngoại ngữ hay nhất,[6] và cũng được đề cử giải quay phim hay nhất.

Bộ phim nhận được một đề cử từ Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 72 cho phim ngoại ngữ hay nhất,[14] và từ International Press Academy tại Giải Satellite lần thứ 19 cho phim ngoại ngữ hay nhất.

Phương tiện truyền thông gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Ida được phát hành dưới dạng DVD ở cả khu vực 1 và khu vực 2 với phụ đề Anh ngữ.[15][16] Nó cũng được phát hành cùng với phụ đề của vài ngôn ngữ khác. Tháng 12 năm 2014, bộ phim được Nghị viện châu Âu trao giải Lux Prize; giải này hỗ trợ dịch phụ đề của bộ phim thành tất cả 23 ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu.[17]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ida (12A)”. British Board of Film Classification. ngày 28 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ a b c “Ida (2018) - Financial Information”. The Numbers. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2018.
  3. ^ Denby, David (ngày 27 tháng 5 năm 2014). 'Ida': A Film Masterpiece”. The New Yorker. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015. ... from the beginning, I was thrown into a state of awe by the movie's fervent austerity. Friends have reported similar reactions: if not awe, then at least extreme concentration and satisfaction. This compact masterpiece has the curt definition and the finality of a reckoning—a reckoning in which anger and mourning blend together.
  4. ^ Bradshaw, Peter (ngày 25 tháng 9 năm 2014). “Ida review – an eerily beautiful road movie”. The Guardian.
  5. ^ Scott, A. O. (ngày 1 tháng 5 năm 2014). “An Innocent Awakened: 'Ida,' About an Excavation of Truth in Postwar Poland”. The New York Times.
  6. ^ a b Barraclough, Leo (ngày 23 tháng 2 năm 2015). “Polish Film Institute Chief Celebrates as 'Ida' Becomes First Polish Movie to Win Foreign-Language Film Oscar”. Variety.
  7. ^ a b Hopewell, John (ngày 8 tháng 11 năm 2014). 'Ida,' 'Leviathan' Top European Film Awards Nominations”. Variety.
  8. ^ a b “Bafta Film Awards 2015: Winners”. BBC News. ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  9. ^ 2016, 23 August. “The 21st Century's 100 greatest films”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2016.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Roxborough, Scott (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Nun Drama 'Ida' Is Poland's Oscar Candidate”. The Hollywood Reporter.
  11. ^ “L'incroyable succès du film"Ida"(aussi) aux Etats-Unis” [The unbelievable success of the film 'Ida"(also) in the United States]. telerama.fr (bằng tiếng Pháp). ngày 29 tháng 10 năm 2014.
  12. ^ “Ida”. 2013 Toronto International Film Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  13. ^ “TIFF 2013: 12 Years a Slave wins film fest's top prize”. Toronto Star. Reuters. ngày 15 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  14. ^ 72ND ANNUAL GOLDEN GLOBE® AWARDS NOMINEES ANNOUNCED Lưu trữ 2017-02-27 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014
  15. ^ Ida (DVD (region 1)). Music Box Films. tháng 5 năm 2014. ISBN 9788379891719. OCLC 884738275.
  16. ^ Ida (DVD (region 2)). Artificial Eye. ngày 24 tháng 11 năm 2014. OCLC 891429574.
  17. ^ “Ida Wins the European Parliament's LUX Prize”. culture.pl. ngày 19 tháng 12 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mục đích, khoa học và sự thật về Giấc Ngủ
Mục đích, khoa học và sự thật về Giấc Ngủ
Giấc ngủ chiếm 1/3 cuộc đời bạn, có ảnh hưởng lớn đến thể chất và cả tinh thần
Cảm nhận sách: lối sống tối giản thời công nghệ số - Cal Newport
Cảm nhận sách: lối sống tối giản thời công nghệ số - Cal Newport
Cuốn sách “lối sống tối giản thời công nghệ số” là một tập hợp những quan điểm, suy tư của Cal Newport về cách sử dụng công nghệ ngày nay
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng năng lực các nhân vật trong anime Lúc đó, tôi đã chuyển sinh thành Slime
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Tương lai đa dạng của loài người chính là năng lực. Căn cứ theo điều đó, thứ "Trái với tự nhiên" mới bị "Biển cả", mẹ của tự nhiên ghét bỏ