Iga Cembrzyńska

Iga Cembrzyńska
Iga Cembrzyńska
SinhMaria Elżbieta Cembrzyńska
2 tháng 7, 1939 (85 tuổi)
Radom, Ba Lan
Tên khácIga Cembrzyńska-Kondratiuk
Trường lớpĐại học Nicolaus Copernicus
Học viện nghệ thuật sân khấu quốc gia Aleksander Zelwerowicz ở Warszawa
Nghề nghiệpdiễn viên, nhà sản xuất phim
Tác phẩm nổi bậtThe Saragossa Manuscript
Phối ngẫuAndrzej Kondratiuk

Iga Cembrzyńska, tên thật Maria Elżbieta Cembrzyńska (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1939 tại Radom) là nữ diễn viên Ba Lan. Bà cũng là nhà biên kịch, đạo diễn, ca sĩ, nhà soạn nhạc và nhà sản xuất phim, và có công ty sản xuất của riêng mình mang tên Iga Film.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Bà theo học tại Đại học Nicolaus CopernicusToruń, Khoa Triết học. Năm 1962 bà tốt nghiệp Học viện nghệ thuật sân khấu quốc gia Aleksander ZelwerowiczWarszawa. Nữ diễn viên từng biểu diễn ở nhiều sân khấu như: Powszechny, Ateneumnhà hát Hài kịchWarszawa.

Năm 1964, ca khúc Intymny świat do bà trình bày tại Liên hoan Opole lần thứ 2 nhận được giải 3 ở hạng mục: Cabaret và ca khúc giải trí. Năm 1965, bà cùng Bohdan Łazuka giành được giải 2 tại Liên hoan Opole lần thứ 2Liên hoan Opole lần thứ 3 cho phần trình diễn ca khúc W siną dal. Năm 1966 bà xuất hiện trong chương trình Divertimento op. 3 Szelesty jesienne của Jeremy Przybora.

Năm 1979, bà được trao tặng huy hiệu "Nhà hoạt động văn hóa ưu tú" [1].

Ngày 15 tháng 3 năm 2016, cuốn sách "Mój intymny świat" (Tạm dịch: Thế giới thân mật của tôi) xuất bản. Nội dung của cuốn sách là cuộc phỏng vấn giữa Iga Cembrzyńska với Magdalena Adaszewska.[2]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Chồng đầu của bà là triết gia Andrzej Kasia [3]. Bà kết hôn với đạo diễn Andrzej Kondratiuk từ đầu những năm 1980.

Danh sách phim đã đóng

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. Salto (1965)
  2. The Saragossa Manuscript, Rękopis znaleziony w Saragossie (1965)
  3. Komedia z pomyłek (1967) (TV)
  4. Stawka większa niż życie (1 tập, series truyền hình)
  5. Ściana czarownic (1967)
  6. Jowita (1967)
  7. Hydrozagadka (1970) (TV)
  8. Motodrama (1971)
  9. Skorpion, Panna i Łucznik (1973)
  10. Jak to się robi (1974)
  11. Smuga cienia (1976)
  12. Pełnia (1980)
  13. Levins Mühle (1980)
  14. Gwiezdny pył (1982)
  15. Hotel Polan und seine Gäste (1982) (TV)
  16. Yokohama (1982)
  17. Klakier (1983)
  18. Krzyk (1983)
  19. Engagement (1984) (TV)
  20. Widziadło (1984) (lồng giọng)
  21. Cztery pory roku (1985)
  22. Big Bang (1986) (TV)
  23. Rajska jabłoń (1986)
  24. Dziewczęta z Nowolipek (1986)
  25. Siekierezada (1986)
  26. Pay Off (1987) (TV)
  27. Crimen (1988)
  28. Powroty (1989)
  29. Mleczna droga (1991) (TV)
  30. Ene
  31. Panna z mokrą głową (1994)
  32. Wrzeciono czasu (1995)
  33. Słoneczny zegar (1997)
  34. Córa marnotrawna (2001)
  35. Szycie na goraco (2004) (TV)
  36. Bar pod młynkiem (2005) (TV)
  37. Na dobre i na złe (1 tập, series truyền hình)

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Spotkanie twórców i artystów polskiej estrady”. PBC. 146: 2. ngày 2 tháng 7 năm 1979.
  2. ^ “Magdalena Adaszewska, Iga Cembrzyńska Mój intymny świat”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020. line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 38 (trợ giúp)
  3. ^ Tygodnik „Życie na Gorąco" nr 15, 14 kwietnia 2016, s. 12-13

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan