Julia Hartwig

Julia Hartwig
Hartwig (2009)
Sinh(1921-08-14)14 tháng 8 năm 1921
Lublin, Ba Lan
Mất14 tháng 7 năm 2017(2017-07-14) (95 tuổi)
Gouldsboro, Pennsylvania
Nghề nghiệpnhà văn, nhà thơ, dịch giả

Julia Hartwig-Międzyrzecka (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1921 - mất ngày 14 tháng 7 năm 2017) là một nhà văn, nhà thơdịch giả nổi tiếng người Ba Lan.[1][2][3]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Julia Hartwig sinh ra và lớn lên ở Lublin. Từ năm 1970 đến năm 1974, bà sinh sống ở Hoa Kỳ. Sau đó, Julia Hartwig trở về Ba Lan và sống ở Warsaw.[4]

Julia Hartwig xuất bản tập thơ đầu tiên có tên Pożegnania vào năm 1956.[1] Nhiều bài thơ đã được dịch sang các ngôn ngữ khác bao gồm tiếng Anh, Pháp, Ý, Nga, Litva, Serbia, Hy LạpĐức.[5]

Julia Hartwig còn xuất bản các bản dịch từ những bài thơ tiếng Pháp của các cây bút nổi tiếng, chẳng hạn như nhà thơ Guillaume Apollinaire, Blaise Cendrars, Max Jacob, Henri Michaux, Pierre Reverdy, và Gérard de Nerval.[6]

Ngày 5 tháng 9 năm 2005, Julia Hartwig được Bộ Văn hóa và Di sản Quốc gia (Ba Lan) trao tặng Huy chương Vàng Huy chương Công trạng về văn hóa - Gloria Artis vì những cống hiến to lớn đối với văn hóa và nghệ thuật.[7]

Bà mất ngày 14 tháng 7 năm 2017 tại Pennsylvania.

Tác phẩm tiêu biểu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Thể loại Ghi chú
1969 Wolne ręce Thơ
Wielki pościg Sách thiếu nhi
1971 Dwoistość Thơ
1978 Czuwanie Thơ
1980 Chwila postoju Thơ
1987 Obcowanie Thơ
1992 Czułość Thơ
2004 Bez pożegnania được đề cử Giải thưởng văn học Nike

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Segel, Harold B. (2003). The Columbia Guide to the Literatures of Eastern Europe Since 1945. Columbia University Press. tr. 207. ISBN 0231114044.
  2. ^ “Julia Hartwig”. culture.pl (bằng tiếng Ba Lan). Adam Mickiewicz Institute.
  3. ^ “Contemporary Authors Online”. Biography in Context. Gale. 2010. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
  4. ^ Miller, Jane Eldridge (2001). Who's who in Contemporary Women's Writing. tr. 136. ISBN 0415159806.
  5. ^ Carpenter, Bogdana (tháng 5 năm 2008). “Julia Hartwig's in Praise of the Unfinished translated by John and Bogdana Carpenter” (PDF). Slavic Scene. 16 (1): 10. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  6. ^ Grol, Regina (1996). Ambers aglow: an anthology of Polish women's poetry (1981–1995). tr. 432. ISBN 0924047151.
  7. ^ “Medal Zasłużony Kulturze - Gloria Artis”. mkidn.gov.pl (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu Frey - Sky Queen trong Tensura
Giới thiệu Frey - Sky Queen trong Tensura
Frey có đôi cánh trên lưng và móng vuốt ở chân. Cô ấy có mái tóc trắng và thường được nhìn thấy mặc một chiếc váy đỏ.
Giới thiệu Oshi no ko - Bị kẻ lạ mặt đâm chớt, tôi tái sinh thành con trai idol
Giới thiệu Oshi no ko - Bị kẻ lạ mặt đâm chớt, tôi tái sinh thành con trai idol
Ai sinh đôi một trai một gái xinh đẹp rạng ngời, đặt tên con là Hoshino Aquamarine (hay gọi tắt là Aqua cho gọn) và Hoshino Ruby. Goro, may mắn thay (hoặc không may mắn lắm), lại được tái sinh trong hình hài bé trai Aqua
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3