Kasia Cerekwicka

Kasia Cerekwicka
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhKatarzyna Cerekwicka
Sinh17 tháng 3, 1980 (44 tuổi)
Nguyên quánKoszalin, Ba Lan
Thể loạiPop, R&B, Soul
Năm hoạt động1997–nay
Hãng đĩaBMG Poland, Sony BMG Music Entertainment Poland, Sony Music Entertainment Poland
Websitewww.kasiacerekwicka.com.pl

Kasia Cerekwicka (tên khai sinh Katarzyna Cerekwicka; sinh ngày 17 tháng 3 năm 1980 tại Koszalin, Ba Lan) là một nữ ca sĩ nhạc pop người Ba Lan. Cô đã tập hát từ khi còn nhỏ tuổi. Năm 1997, tức năm 17 tuổi, cô đã đăng quang tại chương trình Szansa na sukces ("Chance for Success") nổi tiếng của Ba Lan.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Cô đã ghi âm 4 album. Album đầu tiên là Mozaika từ năm 2000. Năm 2007 Kasia thừa nhận cô không hề thích Mozaika và không ngạc nhiên khi album không nổi tiếng tại Ba Lan. Album kế tiếp của cô là Feniks ("Fenix"). Năm 2006 cô đem bài hát "Na kolana" ("On your Knees") của mình đi tranh tài tại cuộc thi Piosenka dla Europy 2006 cho đến Eurovision Song Contest 2006; tại cuộc thi này cô đã kết thúc ở vị trí số 1 cùng Ich Troje nhưng chiếu theo luật thì nhóm được cử đi đại diện cho Ba Lan ở Eurovision do điểm bầu chọn trên truyền hình cao hơn, sau đó họ kết thúc ở vị trí số 11 ở vòng bán kết, nhưng đối với Kasia, bài hát của cô trở thành bài hit của năm tại Ba Lan và một số quốc gia khác của châu Âu. "Ostatnia Szansa" ("Last Chance") là đĩa đơn thứ hai của cô trích từ album Feniks và bài hát đã giành ngôi quán quân trên MTV Ba Lan. Kế đó cô phát hành đĩa đơn thứ 3 mang tên "Potrafię kochać" ("I can love").

Album thứ hai của Kasia Cerekwicka, Feniks đã nâng tầm sự nghiệp của cô lên hàng ngũ siêu sao ca nhạc. Trong khi hai bài hit đình đám "Na Kolana" và "Potrafię kochać" làm mưa làm gió khắp Ba Lan, album phòng thu thứ hai của cô nhanh chóng giành chứng chỉ bạch kim danh giá. Cô đã thắng giải Superjedynka cho Thu âm của năm, sau đó tiếp tục gặt hái một số danh hiệu tại nhạc hội Opole Festival và kế đó là giật giải của Karlshamn Baltic Festival[1] 2006 tại Thụy Điển vào ngày 22 tháng 7 với ca khúc "Na Kolana".

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Tựa Chi tiết album Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng chỉ
POL
[2][3][4]
Mozaika
  • Phát hành: 30 tháng 10 năm 2000[5]
  • Hãng đĩa: BMG Poland
  • Định dạng: CD
Feniks
  • Phát hành: 20 tháng 2 năm 2006[6]
  • Hãng đĩa: Sony BMG Poland
  • Định dạng: CD, tải kĩ thuật số[7]
7
  • POL: 15.000+[8]
Pokój 203
  • Phát hành: 8 tháng 10 năm 2007[10]
  • Hãng đĩa: Sony BMG Poland
  • Định dạng: CD, tải kĩ thuật số[11]
6
  • POL: 15.000+[8]
Fe-Male
  • Phát hành: 31 tháng 5 năm 2010[12]
  • Hãng đĩa: Sony Music Poland
  • Định dạng: CD, tải kĩ thuật số[13]
11
"—" chỉ một bản nhạc không được phát hành hoặc không lọt vào bảng xếp hạng của thị trường đó.

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Tựa Năm Đạo diễn Album Chú thích
"Ostatnia szansa" 2006 Kuba Łubniewski Feniks [14]
"Potrafię kochać" Iza Poniatowska [15]
"Na kolana" Mariusz Palej [16]
"S.O.S." 2007
Pokój 203 [17]
"Zostań"
[18]
"Nie ma nic" 2008
non-album single [19]
"Książe" 2010 Jacek Kościuszko Fe-Male [20]
"Wszystko czego chce od ciebie" 2011 Iza Poniatowska [21]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Karlshamn Baltic Festival”. karlshamn.com. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2019.[liên kết hỏng]
  2. ^ “Oficjalna lista sprzedaży:: OLiS – Official Retail Sales Chart”. olis.onyx.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  3. ^ “Oficjalna lista sprzedaży:: OLiS – Official Retail Sales Chart”. olis.onyx.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ “Oficjalna lista sprzedaży:: OLiS – Official Retail Sales Chart”. olis.onyx.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  5. ^ “Mozaika – Kasia Cerekwicka – Muzyka – WP.PL”. muzyka.wp.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  6. ^ “Kasia Cerekwicka – Feniks – Muzyka w Interia.pl”. muzyka.interia.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  7. ^ “Feniks by Kasia Cerekwicka on iTunes”. iTunes Store. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  8. ^ a b “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  9. ^ a b “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2010.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  10. ^ “Kasia Cerekwicka – Pokój 203 – Muzyka w Interia.pl”. muzyka.interia.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  11. ^ “Pokój 203 by Kasia Cerekwicka on iTunes”. iTunes Store. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  12. ^ “Kasia Cerekwicka – Fe-Male – Muzyka w Interia.pl”. muzyka.interia.pl. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  13. ^ “Fe-Male by Kasia Cerekwicka on iTunes”. iTunes Store. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  14. ^ “Kasia Cerekwicka – Ostatnia szansa – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  15. ^ “Kasia Cerekwicka – Potrafie kochac – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  16. ^ “Kasia Cerekwicka – Na kolana – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  17. ^ “Kasia Cerekwicka – S.O.S – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  18. ^ “Kasia Cerekwicka – Zostan – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  19. ^ “Kasia Cerekwicka – Nie ma nic – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  20. ^ “Kasia Cerekwicka – KsiĄżę (HD) – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.
  21. ^ “Kasia Cerekwicka – Wszystko czego chce od ciebie – YouTube”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016 – qua YouTube.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Doctor Who và Giáng sinh
Doctor Who và Giáng sinh
Tồn tại giữa thăng trầm trong hơn 50 năm qua, nhưng mãi đến đợt hồi sinh mười năm trở lại đây
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Trước tiên ta sẽ làm quen với phản ứng, khi ấn lôi + thảo sẽ tạo ra phản ứng và đưa quái vài trạng thái sinh trưởng
[Zhihu] Anh đại thúc khiến tôi rung động từ thuở nhỏ
[Zhihu] Anh đại thúc khiến tôi rung động từ thuở nhỏ
Năm ấy, tôi 12 tuổi, anh 22 tuổi. Lần đó là dịp mẹ cùng mấy cô chú đồng nghiệp tổ chức họp mặt tại nhà, mẹ mang tôi theo
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng năng lực các nhân vật trong anime Lúc đó, tôi đã chuyển sinh thành Slime