Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. (tháng 5/2021) |
Khăn vấn[1] (䘜抆), khăn đóng (䘜凍) hoặc khăn xếp (䘜插) là những cách gọi một trong những trang sức căn bản của người Việt Nam phổ dụng từ thế kỉ XVIII tới nay.
Theo tác giả Ngàn năm áo mũ Trần Quang Đức, từ thời Lê trung hưng trở về trước, đôi lúc người Việt vẫn quen dùng khăn bọc tóc theo tập quán Trung Châu, nhưng đến những năm hòa hoãn sau cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh thì cư dân Quảng Nam (tức Đàng Trong) bắt đầu phỏng theo nhiều tục của người Champa, trong đó có lối vấn khăn. Việc vấn khăn trên đầu trước tiên là để tránh cái nóng gay gắt của khí hậu Nam Trung Bộ, nhưng sau nó còn được dùng như một loại phục sức. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát ban lệnh toàn cõi Quảng Nam phải ăn mặc theo lối mới để tỏ ra khác biệt với người ở phía bắc sông Gianh (tức Đàng Ngoài), do vậy tục vấn khăn đã trở nên đặc trưng của người miền này. Nhưng phải đến khi các đạo luật nghiêm ngặt được ban hành vào năm 1830 do hoàng đế Minh Mạng thì tục này mới phổ quát trên toàn quốc.
Tục vấn khăn trải qua nhiều giai đoạn phát triển, dần trở thành đặc điểm dùng để phân biệt người Việt trong các nước thuộc vùng văn hóa Á Đông; thậm chí ngày nay, đã có thời gian nó bị chính người Việt lầm tưởng về thói quen ăn mặc của tổ tiên mình trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi giành độc lập từ Trung Hoa vào thế kỷ thứ X. Cho tới đầu thế kỉ XX khi trào lưu Âu hóa có sức ảnh hưởng sâu rộng, tục vấn khăn bị mai một dần, đến nay đã không còn trong thói quen ăn mặc thường ngày của người Việt, tuy nhiên nó vẫn xuất hiện trong các bộ trang phục truyền thống vào những dịp đặc biệt như cưới hỏi, lễ Tết, v..v...
Khăn vấn là một vuông vải dày, quấn nhiều vòng quanh đầu, không phân biệt giới tính cũng như tuổi tác người sử dụng. Theo các sắc lệnh của triều Nguyễn được chép trong Đại Nam thực lục, ban đầu người Việt vẫn giữ nguyên lối vấn khăn kiểu Champa; nhưng sau đó, cách vấn khăn dần được thay đổi cho phù hợp với xu thế thời đại và thể hiện được giai cấp xã hội. Thậm chí, từ thế kỷ XX còn xuất hiện thêm các kiểu "giả khăn vấn" bằng chất liệu gỗ, nhựa, kim loại... Tuy nhiên, hành động này đã bị báo giới đương thời chỉ trích khá gay gắt.
Có nhiều dạng khăn vấn, trong đó phổ biến có các dạng dưới đây:
Ngoài ra, theo luật triều Nguyễn, khăn vấn quá ngắn và mỏng bị cấm, nhưng quá dài và dày cũng bị chê là xấu. Vì thế, việc vấn khăn sao cho gọn và đẹp được xem là cách để thể hiện nhân phẩm và tư cách của mỗi người.
“ | (Phụ nữ) nuôi tóc dài và vấn khăn. Khăn vấn tóc là một miếng vải dài khoảng 80cm, rộng chừng 15cm-20cm, màu đen, màu nâu hoặc màu tím tam giang. Để vấn tóc được tròn và chặt, người ta phải độn thêm vào tóc một cái độn tóc (bằng vải nhồi bông), trông hình như con rắn (dài khoảng 50cm). Ở phía đầu độn có một sợi dây nhỏ dài bằng thân độn. Khi vấn khăn, trước hết rẽ đường ngôi (giữa), dồn tóc sang cả bên phải (hoặc sang bên trái tùy theo sự thuận tay của mỗi người). Đặt độn tóc vào giữa mớ tóc làm cốt, dùng sợi dây cuốn nhiều vòng ra ngoài tóc cho chặt. Lấy khăn vấn bọc tóc lại và cắm một chiếc đanh ghim (hoặc dùng dây buộc vòng) ở đầu khăn để giữ cho khăn khỏi tuột. Dùng tay lần lần vấn, vuốt xuôi cho tròn đều và chặt đến hết chiều dài của khăn. Đặt vành khăn từ trước ra sau đầu một vòng, phần còn lại luồn xuống dưới đoạn đầu khăn, vắt lên ngang đầu sang bên trái. Có lối vắt phần còn lại lên trên đầu khăn rồi kéo chéo qua đầu vắt xuống vành khăn phía bên kia. Nếu tóc dài thì đuôi tóc bao giờ cũng dài hơn khăn, sẽ rủ xuống cạnh tai trái người phụ nữ, gọi là tóc đuôi gà. Tóc đuôi gà là một lối trang điểm được ưa chuộng thời đó. Do vậy đã có bài ca "Mười thương" :
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Về mùa rét, phụ nữ miền Bắc và Bắc Trung Bộ còn chít trên đầu một chiếc khăn vuông màu thâm (thường gọi là khăn vuông hoặc khăn thâm). Đó là một miếng vải vuông mỗi cạnh từ 70cm đến 80cm. Khi chít, gập chéo khăn lại thành hình tam giác, đặt ngang trên đỉnh đầu, hai góc khăn buộc vào dưới cằm, tai được trùm kín. Cũng có kiểu đặt mép khăn xuống gần trán, kéo hai bên khăn về hai phía cho thành một hình mỏ quạ ở giữa rồi buộc hai đầu khăn xuống dưới cằm hoặc quặt đầu khăn buộc ra sau gáy, gọi là chít khăn mỏ quạ. Trường hợp này mép khăn vuông trùm sát vành khăn vấn ở trong làm nổi hình tròn lẳn của vành khăn. Nhiều cô gái, trong mùa nắng to, đã dùng lối đội khăn này nhưng trùm thấp mép khăn vuông xuống đến lông mày, quặt chéo hai đuôi khăn che kín mặt, buộc ra sau gáy, chỉ còn để hở hai con mắt, với mục đích che nắng cho khỏi rám làn da trắng mịn. |
” |
— Đoàn Thị Tình[3] |
Vào khoảng thập niên 1920 khi trang phục người Việt đã đổi nhiều phần do văn hóa Tây phương, một phần do phong trào Duy Tân cổ xúy học chữ Quốc Ngữ và phá những hủ tục xưa thì nam giới bắt đầu cắt tóc ngắn nên không còn búi tóc; cách đội khăn vấn cũng theo đó thay đổi. Để cho tiện, một loại khăn mới ra đời được đóng sẵn như vòng mũ, nên gọi là khăn đóng chỉ chụp vào đầu, không cần vấn như trước nữa. Khăn này cũng gọi là khăn xếp. Tục vấn khăn từ đó mai một dần trong nam giới. Đến khoảng thập niên 1940, khăn đóng gần như thay thế vai trò của khăn vấn, đi kèm với áo dài khi có việc trọng đại.
Từ những năm đầu thập niên 1930, khi phong trào giải phóng nữ quyền từ Nam Kỳ lan rộng ra các thành thị Bắc Kỳ và Trung Kỳ, giới trí thức tân học cảm thấy cần phải thay đổi nhận thức xã hội để người phụ nữ có nhiều cơ hội tham gia các hoạt động mang tính cộng đồng hơn. Đi đầu là việc cải cách về lối ăn mặc như một sự "cởi trói" về thân thể, để nữ giới được tự do thực hiện những quyền lợi chính đáng của họ. Từ các số đầu tuần báo Ngày Nay, Tự Lực văn đoàn đã tích cực quảng cáo cho kiểu tóc vấn trần do ông Lemur Nguyễn Cát Tường chủ trương. Ngay lập tức, trong công luận Hà Nội đã dấy lên một làn sóng tranh cãi khá gay gắt, vì phần lớn quan điểm chưa thể chấp nhận với lối tư duy còn quá mới này. Để trấn an dư luận, Nguyễn Cát Tường đã chụp ảnh người vợ của mình là bà Nguyễn Thị Nội với kiểu tóc vấn trần, sau đó ông thuê những thanh thiếu nữ là con nhà danh giá làm người mẫu dùng kiểu tóc ấy để đi bát phố. Mặc dù qua thời gian, kiểu tóc tân thời cũng được cộng đồng đón nhận, nhưng ở thập niên 1930-40 chỉ có các cô gái thành thị ưa chuộng, những người phụ nữ đã kết hôn hoặc cao tuổi vẫn giữ nguyên với lối tóc truyền thống trước đây.