Khoa học máy tính lý thuyết

Khoa học máy tính lý thuyết (tiếng Anh: theoretical computer science - TCS) là một tập hợp con của khoa học máy tínhtoán học tập trung vào nhiều chủ đề toán học hơn của điện toán và bao gồm lý thuyết của sự tính toán.

Khó để mô tả lĩnh vực lý thuyết này. Dự án ACM SIGACT của ACM đã cung cấp một định nghĩa như sau:[1] "Khoa học máy tính lý thuyết bao quát một vùng lớn các chủ đề gồm thuật toán, cấu trúc dữ liệu, sự phức tạp điện toán, sự tính toán song song và được phân bổ, điện toán xác suất, điện toán lượng tử, lý thuyết máy tự động, lý thuyết thông tin, mật mã, ngữ nghĩa học chương trìnhxác nhận chương trình, học máy, sinh học điện toán, kinh tế điện toán, hình học điện toán, lý thuyết số điện toánsố học. Những công trình nghiên cứu của lĩnh vực này được phan biệt bằng tầm quan trọng của nó đối với kỹ thuật toán học và sự khắt khe.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi logic là sự suy luận và các bằng chứng toán học đã xuất hiện từ trước, vào năm 1931, Kurt Gödel đã chứng minh bằng định luật bất toàn rằng có một giới hạn cơ sở trên cái mà những tuyên bố có thể được chứng minh hoặc không được chứng minh.

Những phát triển này đã dẫn dắt nghiên cứu hiện đại về logickhả năng tính toán và cả khoa học máy tính lý thuyết trên toàn bộ. Lý thuyết thông tin được thêm vào lĩnh vực khoa học máy tính lý thuyết với một lý thuyết toán học vào năm 1948 bởi Claude Shannon. Cùng trong thập kỷ, Donald Hebb giới thiệu một mô hình toán học của học trong não. Với việc gắn dữ liệu sinh học hỗ trợ giả thuyết này với một số sửa đổi, các lĩnh vực về mạng lưới neuronequá trình được sắp xếp song song được thiết lập. Trong năm 1971, Stephen CookLeonid Levin, làm việc độc lập với nhau, đã chứng minh có những vấn đề thích đáng một cách thực tiễn. Đó là NP-complete một kết quả bước ngoặt của lý thuyết phức tạp tính toán.

Với sự phát triển của cơ học lượng tử trong đầu thế kỷ 20 trở thành khái niệm rằng các quá trình toán học có thể được biểu diễn trên một hàm sóng hạt tổng thể. Hoặc có thể nói, lĩnh vực đó có thể tính toán hàm trên những ký hiệu phức tạp một cách đồng thời. Điều này đã dẫn đến khái niệm về máy tính lượng tử trong nửa sau của thế kỷ 20. Cụ thể là vào thập niên 1990, Peter Shor đã chỉ ra rằng các phương pháp cho những số lớn thừa số trong thời gian đa thức, cái mà nếu được bổ sung sẽ làm cho những hệ thống mật mã khóa phổ thống hiện đại nhất trở nên không an toàn.

Khoa học máy tính lý thuyết hiện đại dựa trên những sự phát triển cơ bản này, nhưng bao gồm nhiều vấn đề toán học và thuộc nhiều lĩnh vực học thuât đã được đặt ra, được trình bày ở dưới đây:

P = NP ?
Logic toán học Lý thuyết máy tự động Lý thuyết số Lý thuyết đồ thị Lý thuyết khả năng tính toán Lý thuyết phức tạp tính toán
GNITIRW-TERCES
Mật mã học Lý thuyết mẫu Lý thuyết phạm trù Hình học tính toán Tối ưu tổ hợp Máy tính lượng tử

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “SIGACT”. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Khoa học máy tính

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Data Analytics:
Data Analytics: "Miền đất hứa" cho sinh viên Kinh tế và những điều cần biết
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng những khái niệm liên quan như IoT (Internet of Things), Big Data
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Trong những ngày ngoài kia là trận chiến căng thẳng, trong lòng là những trận chiến của lắng lo ngột ngạt
Cuộc đời kỳ lạ và điên loạn của nữ hoạ sĩ Séraphine
Cuộc đời kỳ lạ và điên loạn của nữ hoạ sĩ Séraphine
Trái ngược với những tác phẩm vẽ hoa rực rỡ, đầy sức sống đồng nội, Séraphine Louis hay Séraphine de Senlis (1864-1942) có một cuộc đời buồn bã
Chúng ta có phải là một thế hệ “chán đi làm”?
Chúng ta có phải là một thế hệ “chán đi làm”?
Thực tế là, ngay cả khi còn là lính mới tò te, hay đã ở vai trò đồng sáng lập của một startup như hiện nay, luôn có những lúc mình cảm thấy chán làm việc vcđ