Lâu đài Hoàng Gia Wawel | |
---|---|
Quang cảnh lâu đài về đêm | |
Vị trí | Phố cổ Kraków, Kraków, Ba Lan |
Tọa độ | 50°03′14″B 19°56′5″Đ / 50,05389°B 19,93472°Đ |
Diện tích | 7.040 m2 (0,704 ha) |
Xây dựng | Thế kỷ 13-14 |
Phong cách kiến trúc | Rô-man, Gô-thic, Phục hưng, Baroque |
Lượng tham quan | 1,500,000 (năm 2015) |
Chủ sở hữu | Danh sách các chủ sở hữu:
|
Tên chính thức: Trung tâm lịch sử Kraków | |
Loại | Văn Hóa |
Tiêu chuẩn | IV |
Ngày nhận danh hiệu | 1978 (Kỳ họp 2nd ) |
Số hồ sơ tham khảo | [1] |
Quốc gia | Ba Lan |
Vùng | Châu Âu và Bắc Mỹ |
Lâu đài Wawel là một tòa lâu đài nằm ở trung tâm Kraków, Ba Lan. Được xây dựng theo lệnh của Vua Casimir III Đại đế,[1] lâu đài này bao gồm nhiều công trình kiến trúc nằm xung quanh sân chính theo phong cách Ý. Là một trong những lâu đài lớn nhất ở Ba Lan, Wawel đại diện cho gần như tất cả các phong cách kiến trúc châu Âu thời trung cổ như Roman, Phục hưng và ba-rốc. Lâu đài Hoàng gia Wawel và Đồi Wawel mang ý nghĩa văn hóa và lịch sử to lớn của quốc gia này. Năm 1978, lâu đài này được tuyên bố là Di sản Thế giới UNESCO - và là một phần của Trung tâm Lịch sử của Krakow.
Là nơi cư ngụ của các vị vua của Ba Lan và biểu tượng của quốc gia Ba Lan trong nhiều thế kỷ, lâu đài hiện là một trong những bảo tàng nghệ thuật nổi tiếng hàng đầu của đất nước này. Được thành lập vào năm 1930, bảo tàng bao gồm mười bộ phận giám tuyển (các chuyên gia tư vấn chuyên môn nghệ thuật) chịu trách nhiệm về các bộ sưu tập tranh, bao gồm một bộ sưu tập quý giá về tranh Phục hưng Ý, tranh in, điêu khắc, tranh dệt, trong đó có bộ sưu tập tấm thảm dệt Zygmunt II của Ba Lan, tác phẩm của thợ kim hoàn, vũ khí và áo giáp, gốm sứ, đồ sứ Meissen, và đồ nội thất cổ. Các bảo tàng lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật phương Đông bao gồm bộ sưu tập lều Ottoman lớn nhất ở châu Âu. Với bảy xưởng bảo tồn phục chế riêng, bảo tàng cũng là một trung tâm quan trọng để lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật.
Cư dân đã sống trên đồi Wawel, tại vị trí của Lâu đài từ năm mươi nghìn năm trước, từ Thời đại Cổ sinh. Cuộc sống định cư nhộn nhịp với nhiều hoạt động thương mại, các loại hàng thủ công và nông nghiệp địa phương. Ngày càng có nhiều người bắt đầu đến định cư trên đồi Wawel và giao thương trở nên phát triển hơn, những nhà cai trị Ba Lan cũng chuyển đến cư trú tại đồi Wawel.
Trong suốt đầu thế kỷ 16, Vua Zygmunt I của Ba Lan (Zygmunt I ở Ba Lan) và vợ ông đã đưa về đây các nghệ sĩ giỏi nhất từ trong đến ngoài nước, bao gồm các kiến trúc sư, nhà điêu khắc và nhà trang trí người Đức, để tân trang lại lâu đài thành một cung điện Phục hưng lộng lẫy.[2] Lâu đài này nhanh chóng trở thành một tuyệt phẩm, một dinh thự trang nghiêm ở Trung và Đông Âu, và được lấy làm mẫu điển hình trên toàn khu vực.
Trong trận hỏa hoạn năm 1595, phần phía đông bắc của lâu đài đã bị thiêu rụi. Mặc dù Vua Zygmunt III Waza đã nỗ lực cho tu sửa lại phần kiến trúc bị phá hủy đó, chỉ có Cầu thang Senator và lò sưởi trong Phòng Bird vẫn còn cho đến ngày nay.[2] Năm 1609, Vua Sigismund dời đô đến Vác-sa-va, Wawel bước vào thời kỳ khó khăn. Cả lâu đài và các tòa nhà khác đều bị bỏ rơi bất chấp sự lo lắng của các thống đốc địa phương. Những cuộc xâm lược của Thụy Điển vào năm 1655-1657 và 1702 lại càng làm cho lâu đài này xuống cấp.[2]
Ngọn đồi Wawel đã bị quân đội Phổ chiếm đóng vào năm 1794. Huy hiệu Hoàng gia đã bị đánh cắp và không bao giờ lấy lại được (ngoài Szczerbiec).[3] Sau sự kiện Phân vùng thứ ba của Ba Lan (1795), Wawel, được xem là một vị trí phòng thủ quan trọng, phần lớn đã bị phá hủy, phần ít ỏi còn lại được người Áo hiện đại hóa với những bức tường phòng thủ. Nội thất của lâu đài đã được thay đổi, trong khi một số tòa nhà thì bị kéo sập. Trong nửa cuối thế kỷ 19, người Áo đã biến các bức tường phòng thủ trước đây thành một phần của thành trì. Tuy nhiên, vào năm 1905, hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã ra lệnh cho quân đội Áo rời khỏi Wawel.[2] Công việc trùng tu bắt đầu, với việc khám phá Rotunda- Nhà Tròn của Đức Mẹ Mary cũng như các di tích khác trong quá khứ. Việc cải tạo Đồi Wawel được tài trợ bởi các quỹ quyên góp cộng đồng.
Sau Thế chiến I, chính quyền mới độc lập của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan quyết định rằng Lâu đài Wawel sẽ trở thành dinh thự đại diện của nhà nước Ba Lan, sẽ được sử dụng trước hết là bởi Thống đốc, và sau đó là Tổng thống.[2] Năm 1921, Quốc hội Ba Lan đã thông qua một nghị quyết cho phép Wawel trở thành nơi cư trú của Tổng thống Ba Lan. Sau sự tàn phá của Thế chiến II, theo sắc lệnh của Hội đồng Quốc gia Nhà nước, lâu đài Wawel trở thành Bảo tàng quốc gia.
Kho bạc Crown nằm trong các căn phòng cổ mang kiến trúc Gô- tích - nơi được sử dụng từ thế kỷ 15 để lưu giữ phù hiệu đăng quang của Ba Lan và Vương miện Ngọc, trưng bày các đồ vật vô giá từ Kho bạc cũ còn sót lại, trong số đó có các kỷ vật của các vị vua Ba Lan bao gồm cả đồ lưu niệm của các thành viên hoàng gia và các nhân vật xuất chúng khác, như chiếc mũ và thanh kiếm được trao cho John III Sobieski sau trận chiến Vienna, cũng như thanh kiếm đăng quang Szczerbiec.[3]
Một đoạn cột của Lâu đài Wawel đã được đưa thành một phần của Tháp Tribune tại Chicago.[4] Khi tháp đang được xây dựng vào đầu thập niên 1920, một đội quyền Anh từ Ba Lan đã đem viên đá này trong dịp đến Mỹ thi đấu.