Lưu Khánh Đàm | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | không rõ |
Nơi sinh | Thanh Hóa |
Mất | |
Ngày mất | 1136 |
Nơi mất | Thái Bình |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | chỉ huy quân đội |
Quốc tịch | nhà Lý |
Lưu Khánh Đàm (? - 1136) là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, phục vụ trong các đời vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông.
Theo Đại Nam nhất thống chí, Lưu Khánh Đàm là người thôn Yên Lãng, quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay). Cuối đời, ông về sống ở huyện Hưng Nhân (Hưng Hà, Thái Bình ngày nay) và mất tại đó.[1]
Theo văn bia chùa Hương Nghiêm (Hà Nội), năm 1077, sau kháng chiến chống Tống, thiền sư Đạo Dung nhờ Lưu Khánh Đàm sửa chùa, Lưu Khánh Đàm sau đó chuyển lại lời cho Thái úy Lý Thường Kiệt.[2] Sự kiện trên chứng minh thời gian này Lưu Khánh Đàm đã trở thành quan lại triều đình hoặc là thuộc quan của Lý Thường Kiệt.
Đến cuối thời Lý Nhân Tông, Lưu Khánh Đàm giữ chức Thái úy. Tháng 12 năm 1127, Nhân Tông ốm nặng, trước khi băng hà đã triệu kiến Lưu Khánh Đàm vào cung để phó thác.[3] Năm 1128, Thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi vua, tức Lý Thần Tông, cho Lê Bá Ngọc thay ông làm Thái úy. Đến năm 1129 thì lại trở lại chức cũ.[4][5]
Tháng 3 năm 1136, Lưu Khánh Đàm qua đời, sau Lê Bá Ngọc một năm. Dương Anh Nhĩ cũng qua đời cùng năm. Thừa dịp nhà Lý mất nhiều trụ cột, năm 1137, Chân Lạp tấn công Đại Việt.[5]
Lưu Khánh Đàm có em trai là Lưu Ba, cũng là một đại thần nhà Lý.[6]
Đại Việt sử ký toàn thư hai lần chép Lưu Khánh Đàm qua đời vào năm 1136 và 1161, đây là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử Việt Nam:
Một số nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm Lưu Khánh Đàm mất năm 1136 và cho rằng người mất năm 1161 là Lưu Ba, em trai Lưu Khánh Đàm.[8]
Vào thời gian Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tạp chí Hồn Việt số 31 ra tháng 1 năm 2010 đã cho đăng bài viết Một tư liệu vừa được phát hiện về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Lưu Khánh Đàm (989 – 1058): Người xướng xuất việc dời đô trong đó đưa ra một số thông tin:[9]
Những luận điểm trên đã gây ra những tranh luận gay gắt. Tạp chí Hồn Việt sau đó đã xuất hiện hai bài viết Lưu Khánh Đàm là hậu sinh làm gì có chuyện xướng xuất việc dời đô của Nguyễn Tấn Vĩnh[4] và Có hay không sự kiện Lưu Khánh Đàm xướng xuất việc Lý Công Uẩn dời đô? của Đào Xuân Ánh.[8] Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng đăng bài viết Một nhầm lẫn cần nói của Hoàng Tiến[10]. Các bài viết trên đều nói những ý sau:
Tuy đã bị chỉ ra nhiều chỗ sai, nhưng vào năm 2014, ở xã Canh Tân, huyện Hưng Hà vẫn tổ chức "Lễ tưởng niệm 956 năm ngày húy nhật Thái phó Lưu Điều... là người đã hết lòng phò Lý Công Uẩn lên ngôi vua và dâng kế dời đô từ Hoa Lư lên thành Thăng Long".[11] Đồng thời tên gọi của Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba bị nhiều sách báo chép thành Lưu Đàm, Lưu Điều (hay Lưu Khánh Ba).[12]
Lưu Khánh Đàm được thờ tại nhà cũ, nay thuộc thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đền thờ Lưu Khánh Đàm được gọi là Đền Lưu Tiết độ sứ[6], ngày nay gọi là Đền Lưu Xá hay Đền Song Lưu. Gần đền là chùa Báo Quốc do em trai ông Lưu Ba xây dựng sau khi đánh thắng quân Tống.[13]
Tên Lưu Khánh Đàm được đặt cho một con đường khá đẹp ở quận Long Biên, thành phố Hà Nội từ Công viên Long Biên đến phố Mai Chí Thọ.[14] Tên ông được đặt cho một trường Mầm non và trường Trung học Cơ sở ở xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.