Đại Nam nhất thống chí (chữ Hán: 大南一統志) là bộ sách dư địa chí (địa lý – lịch sử) Việt Nam, viết bằng chữ Hán do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức. Có thể coi đây là bộ sách lớn nhất và quan trọng nhất về địa chí Việt Nam dưới thời phong kiến [1].
Năm Kỷ Dậu (1849), vua Tự Đức đã có ý định biên soạn Đại Nam nhất thống chí theo lời kiến nghị của Bùi Quỹ[1]. Song mãi đến năm Ất Sửu (1865)[2], Quốc sử quán triều Nguyễn mới tổ chức biên soạn bộ sách dựa trên cơ sở của bộ Đại Nam nhất thống dư đồ (thảo xong vào năm Tân Dậu, 1861). Dự định sẽ hoàn thành sớm, nhưng vì một vài lý do nào đó, mãi đến năm 1882, bộ Đại Nam nhất thống chí mới hoàn thành.
Tuy nhiên, đến khi dâng lên vua Tự Đức xem và xin phép khắc in, thì nhà vua bắt sửa kỹ lại và làm thêm tập "Bổ biên". Năm 1883, vua Tự Đức mất. Sau đó, trong triều liên tiếp xảy ra nhiều việc bất ổn, và tiếp theo là Trận Kinh thành Huế 1885, khiến bản thảo chưa kịp dâng lên lần nữa, thì bị thất lạc nhiều tập trong cơn binh lửa (trong số đó có tập "Bổ biên" đến nay vẫn chưa tìm được)[1].
Năm 1906, vua Thành Thái ra lệnh làm lại Đại Nam nhất thống chí. Đến ngày 8 tháng 12 năm Canh Tuất (tức 18 tháng 1 năm 1910), thì bộ sách được vua Duy Tân cho phép khắc in. Song lúc bấy giờ bộ sách này chỉ chép hạn chế ở các tỉnh Trung Kỳ trực thuộc Nam triều mà thôi.
Nguyên bản bộ sách được biên soạn dưới triều Tự Đức, có 28 tập với 31 quyển, chép tay trên bản thường, khổ 28 x 16 cm.
Trong 30 quyển đầu tiên thì mỗi quyển chép một tỉnh, bao gồm: Kinh sư (Huế), phủ Thừa Thiên, Hà Nội, Hưng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Bắc Ninh, Quảng Yên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Vĩnh Long, Gia Định, Biên Hòa, An Giang, Định Tường, Hà Tiên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phú Yên. Quyển thứ 31 là Phụ chép về các nước lân cận (Cao Miên, Tiêm La, Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Nam Chưởng,[3] Vạn Tượng).
Mỗi tỉnh được trình bày theo các mục:[4]
Như trên đã nói, năm 1910, Đại Nam nhất thống chí được vua Duy Tân cho phép khắc in, nhưng chỉ chép hạn chế ở các tỉnh Trung Kỳ, vì lúc đó dưới thể chế Liên bang Đông Dương thì triều đình Huế chỉ trực tiếp cai trị Trung Kỳ. Đơn vị đó bao gồm:
Nội dung từng tỉnh trong bộ sách này cũng tương tự như bộ sách trước, nhưng có điều chỉnh vài mục như: mục Lăng mộ được nhập vào mục Cổ tích, mục Nhân vật được bổ sung thêm truyện các hiếu tử (người con có hiếu). Ngoài ra, bộ này có thêm các mục mới là: Dịch trạm, Lý lộ, và mỗi tỉnh có thêm một bản đồ.
Ở miền Nam Việt Nam, Đại Nam nhất thống chí đã được dịch ra tiếng Việt lần đầu bởi Á Nam Trần Tuấn Khải và Tu Trai Nguyễn Tạo; và đã được Nha Văn hóa thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa ấn hành năm 1960. Ở miền Bắc, bộ sách đã được Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính; và được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1970-1971. Năm 2012, một phần bộ sách này được in lại trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 2).