Lý Thánh Tông 李聖宗 | |||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Đại Việt (Việt Nam) | |||||||||||||||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Việt | |||||||||||||||||||||||||||||
Trị vì | 3 tháng 11 năm 1054 – 1 tháng 2 năm 1072 17 năm, 90 ngày | ||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Lý Thái Tông | ||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Lý Nhân Tông | ||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||||||||||||||
Sinh | 30 tháng 3 năm 1023 | ||||||||||||||||||||||||||||
Mất | 1 tháng 2, 1072 | (48 tuổi)||||||||||||||||||||||||||||
An táng | Thọ Lăng | ||||||||||||||||||||||||||||
Thê thiếp | |||||||||||||||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Lý | ||||||||||||||||||||||||||||
Thân phụ | Lý Thái Tông | ||||||||||||||||||||||||||||
Thân mẫu | Kim Thiên hoàng hậu | ||||||||||||||||||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Lý Thánh Tông hay Lý Thánh Tôn (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị vì từ tháng 11 năm 1054 đến khi qua đời năm 1072. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lý Thánh Tông đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khoan giảm hình phạt, đồng thời bảo trợ Phật giáo và Nho giáo. Ông còn xây dựng quân đội Đại Việt hùng mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại cứng rắn với Đại Tống và mở đất về ba châu Địa Lý, Mã Linh, Bố Chính (nay là một phần thuộc Quảng Bình và Quảng Trị, Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt - Chiêm (1069). Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên viết về Lý Thánh Tông: "Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt".[3]
Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế (百年盛世).
Ông tên thật là Lý Nhật Tôn (李日尊), là đích tử của Lý Thái Tông và Linh Cảm Hoàng hậu họ Mai, do hai người anh của ông chết yểu khi sinh ra nên ông được xem là con trưởng. Ông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 14 (tức ngày 30 tháng 3 năm 1023) tại cung Long Đức vào cuối thời Lý Thái Tổ.[4][3] Tháng 5 âm lịch năm 1028, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông sách phong Lý Nhật Tôn làm Thái tử.[3][5]
Theo sách Đại Việt sử lược, Thái tử Nhật Tôn sớm trở nên "tinh thông kinh truyện, hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược".[4] Tháng 8 âm lịch năm 1033, Lý Thái Tông phong ông tước Khai Hoàng vương (開皇王) và dựng cung Long Đức làm nơi ở cho ông. Ông đã sớm được tiếp xúc với dân chúng, nên hiểu được nỗi khổ của dân và thông thạo nhiều việc.[6]
Tháng 2 âm lịch năm 1037, ông được Thái Tông phong làm Đại Nguyên soái, cùng cha đi dẹp quân nổi dậy ở Lâm Tây (khoảng các châu huyện Thủy Vĩ tới Bình Nguyên) và giành được chiến thắng.[7]
Tháng 2 âm lịch năm 1039, Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Nùng Tồn Phúc ở mạn tây bắc. Thái tử Nhật Tôn mới 17 tuổi được cử làm Giám quốc, coi sóc kinh thành và việc triều chính.[7]
Ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1040, ông lại được Lý Thái Tông giao quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước, lập cơ quan ở điện Quảng Vũ. Sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ trích quyết định này của Thái Tông:[8]
Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm vua ra, khi ở lại giữ nước thì gọi là Giám quốc, khi đem quân đi thì gọi là Phủ quân, có thế mà thôi, chưa nghe thấy sai xử kiện bao giờ. Phàm xử kiện là việc của Hữu ty. Thái Tông sai Khai Hoàng vương làm việc đó không phải là chức phận của thái tử, lại lấy điện Quảng Vũ làm nơi Vương xử kiện là không đúng chỗ.
Mùa đông năm 1042, cư dân châu Văn (nay thuộc Lạng Sơn) làm binh biến.[9] Ngày 1 tháng 10 âm lịch năm đó, Thái Tông phong Nhật Tôn làm Đô thống Đại Nguyên soái, chỉ huy quân đội đi trấn áp. Đến ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1043, ông lại được cử làm Đô thống Đại Nguyên soái đi dẹp loạn ở châu Ái (nay thuộc Thanh Hóa).[9][10] Đại Việt sử lược chép rằng: "Thánh Tông... đánh dẹp giặc giã, tới đâu cũng đều đánh thắng được cả".[4]
Cuối năm 1043, Lý Thái Tông thấy Chiêm Thành đã 16 năm không chịu sang cống, bèn quyết ý chinh phạt phương Nam. Mùa xuân năm 1044, Thái Tông tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, giao cho Thái tử Nhật Tôn làm Lưu thủ kinh sư. Trên mặt trận, quân Việt thắng to ở sông Ngũ Bồ, giết chết chúa Chiêm là Sạ Đẩu, chiếm quốc đô Phật Thệ trong một thời gian rồi về nước [9][11]
Tháng 7 âm lịch năm 1054, thấy mình già yếu, Thái Tông cho phép Thái tử Nhật Tôn ra coi chầu nghe chính sự.[12][13] Đến ngày 1 tháng 10 âm lịch (3 tháng 11 dương lịch) năm 1054, Lý Thái Tông qua đời.[12] Lý Nhật Tôn lên nối ngôi, tức Hoàng đế Lý Thánh Tông, lấy niên hiệu đầu là Long Thụy Thái Bình. Ông lập 8 hoàng hậu, và tôn mẹ là Mai thị làm Linh Cảm Thái hậu.[4]
Trong thời gian cầm quyền, Lý Thánh Tông tự xưng là "vạn thặng"[14] và đặt 5 niên hiệu:
Ngay sau khi lên ngôi, năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.[15] Quốc hiệu này kéo dài 346 năm cho tới khi nhà Hồ đổi thành Đại Ngu (1400)[16], sau đó được nhà Lê khôi phục năm 1428[17], và tồn tại đến đầu thời nhà Nguyễn.[18]
Lý Thánh Tông được sử cũ mô tả là một hoàng đế nhân đức.[19][6] Đại Việt sử lược ghi lại, trong mùa đông năm 1055, Thánh Tông từng nói với các quan hầu cận: "Ta ở trong cung sâu, sưởi là than, mặc áo hồ cừu mà còn lạnh như thế này, huống chi những kẻ ở trong tù, khốn khổ vì trói buộc, phải trái chưa phân minh mà quần áo không đủ, thân thể không có gì che, nên mỗi khi bị cơn gió lạnh khắc nghiệt thì há không chết được người vô tội hay sao! Ta vô cùng thương xót". Tiếp đó, ông sai quan Hữu ty cấp mền, chiếu trong kho cho tù nhân và yêu cầu cung cấp cho người tù hai bữa ăn đầy đủ mỗi ngày. Cùng năm đó, Thánh Tông truyền lệnh giảm một nửa tô thuế cho dân cả nước.[20]
Lý Thánh Tông còn chủ trương giảm các hình phạt trong nước. Theo Đại Việt sử lược, một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi lên ngôi là sai đốt các công cụ tra tấn.[4] Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép, vào tháng 6 âm lịch năm 1065, khi đang ngự ở điện Thiên Khánh để xét án, nhà vua chỉ vào Động Thiên công chúa đứng cạnh ông và tuyên bố: "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi".[1] Đến năm 1070, ông cho phép những người chịu hình phạt đánh roi (trượng hình) được nộp tiền để giảm tội.[21] Ngoài ra, vào năm 1067, nhà vua đã định ra chế độ lương bổng hàng năm cho quan Đô hộ phủ Sĩ sư (người đứng đầu cơ quan tư pháp cả nước) và các cai ngục: theo đó, hai Đô hộ phủ Sĩ sư Ngụy Trọng Hòa, Đặng Thể Tư mỗi người hưởng 50 quan tiền, 200 bó lúa và các loại cá muối; ngục lại mỗi người nhận 20 quan tiền và 100 bó lúa.[22][1] Chính sách này giúp nâng cao tinh thần thanh liêm của các quan hình án.[19]
Tiếp nối hai vua trước, Lý Thánh Tông rất chú trọng sản xuất nông nghiệp.[3] Tháng 10 âm lịch năm 1056, nhà vua ban bố Chiếu khuyến nông.[23] Ông cũng đi đến nhiều nơi để xem nông dân gặt lúa.[22] Khi sản xuất gặp khó khăn (như vào tháng 4 âm lịch năm 1070), nhà vua đem tiền, thóc và lụa trong kho phát cho dân nghèo.[19]
Tháng 8 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông bắt đầu áp dụng kiểu mẫu triều phục cho bá quan.[24] Tại điện Thủy Tinh, ông đã ban phát mũ cánh chuồn (hay mũ phốc đầu) và hia cho quan viên; từ đây có lệ quan lại vào chầu phải đội mũ cánh chuồn và mang hia.[1][25]
Về quân sự, Lý Thánh Tông chia quân chính quy làm 8 hiệu quân, đặt tên là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Mỗi hiệu quân có 4 bộ gồm Tả, Hữu, Tiền và Hậu, hợp lại là 100 đội có kỵ binh, cung thủ và lính bắn đá. Còn phiên binh (quân các vùng sâu xa) thì được phiên chế thành các đội riêng.[26][25][27] Mô hình quân đội của Lý Thánh Tông đã đạt được trình độ cao đến mức một võ quan Đại Tống là Thái Diên Khánh phải áp dụng, và được Tống Thần Tông khen ngợi.[25][26]
Lý Thánh Tông còn là một tín đồ Phật giáo mộ đạo. Ông đã cho xây rất nhiều chùa tháp, trong đó có chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ - nơi hoàng gia nhà Trần sau này thường lễ Phật. Ông còn dựng các tượng Đế Thích, Phạm Thiên bằng vàng và đúc chuông đồng lớn. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Súng Khánh, nhà vua sai dựng Bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) vào năm 1056.[3] Ngôi tháp này có 12 tầng và cao 20 trượng (chừng 70m). Đây được xem là một trong An Nam tứ đại khí, tức 4 kỳ quan của Đại Việt thời Lý-Trần.[28] Lý Thánh Tông còn là một thiền sư - cư sĩ, được coi là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Thảo Đường – một trong ba dòng thiền chính tại Đại Việt thời đó.[29] Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt: lịch-sử ngoại-giao triều Lý, các biểu hiện thương dân của Thánh Tông xuất phát từ sự thấm nhuần tinh thần từ bi của Phật pháp, chứ không phải từ động cơ tuyên truyền chính trị.[30] Bên cạnh đó, ông rất chú trọng mở mang Nho học. Mùa thu năm 1070, nhà vua đã xây dựng Văn miếu và tạc tượng thờ Chu Công, Khổng Tử cùng 4 học trò xuất sắc. Ông cũng cho vẽ tranh thờ 72 môn sinh của Khổng Tử và sai tế lễ bốn mùa.[19]
Dưới thời Lý Thánh Tông, xã hội Đại Việt tương đối ổn định.[26] Bên cạnh đó, một số cuộc binh biến đã xảy ra tại động Sa Đãng (1061), năm huyện Ái Châu và Giang Long (1061), động Sa Ma - nay thuộc Hòa Bình (tháng 10 âm lịch năm 1064) và châu Mang Quán - Lạng Sơn (tháng 7 âm lịch năm 1065). Lý Thánh Tông đã tự mình cầm quân đánh bại các cuộc nổi dậy này.[31] Lý Thánh Tông có người vợ thứ là Nguyên phi Ỷ Lan cũng nổi tiếng có tài trị nước. Nhà vua muộn con, không có thái tử giám quốc như các đời trước khi đi chinh chiến nhưng việc chính sự được yên ổn nhờ tay Nguyên phi Ỷ Lan.
Sau các cuộc quấy phá của Nùng Trí Cao vào Trung Hoa, quan hệ Đại Tống – Đại Việt trở nên căng thẳng. Tri châu Ung là Tiêu Chú đã thuyết phục hoàng đế Tống chuẩn bị tấn công Đại Việt. Lý Thánh Tông đã nắm được tình hình này, và thoạt tiên ông chọn cách ứng xử mềm dẻo.[32] Tháng 4 âm lịch[23] năm 1057, ông sai Mai Nguyên Thanh mang thú lạ sang dâng cống cho nhà Tống, và bảo rằng đây là "kỳ lân". Nghe lời khuyên của Tư Mã Quang, Hoàng đế Tống Nhân Tông từ chối không nhận. Sau đó Tiêu Chú lại cho quân khiêu khích dọc theo biên giới.[32]
Tháng 3 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông sai quân tướng từ miền đông bắc đánh phá đất Tống.[32] Về sự kiện này, Toàn thư chỉ chép quan quân "đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc".[1] Nhưng học giả Hoàng Xuân Hãn viện dẫn các sách sử của Tống cho biết quân Đại Việt đã chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan Tống là Lý Duy Tân, đồng thời bắt giữ nhiều quân, dân và vật nuôi. Tống Nhân Tông và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi Thánh Tông mới rút quân về.[1][32]
Cũng vào năm 1059, một số quân, dân Đại Việt đã lánh sang châu Tây Bình của Tống. Họ được chỉ huy quân sự Tây Bình là Vi Huệ Chính bao che. Thánh Tông sai Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái mang quân sang bắt lại. Từ động Giáp (Đại Việt), Thân Thiệu Thái tiến quân vào huyện Như Ngao (Tây Bình) và giao chiến với quân Tống do Tống Sĩ Nghiêu chỉ huy. Sau trận đánh này, Thân Thiệu Thái rút quân về nước; Tống Sĩ Nghiêu phản công đánh vào động Giáp nhưng bị quân Đại Việt đập tan.[32] Đến năm 1060, Thánh Tông lại sai Thân Thiệu Thái tấn công đất Tống, giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ. Quân Tống ở Tây Bình chống cự không nổi. Từ châu Tây Bình, quân Đại Việt tiến tới châu Ung và tấn công trại Vĩnh Bình. Quân Tống lại thua; quân Đại Việt bắt được Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân dân. Vua Tống sai Thị lang Bộ lại Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản kích nhưng không thành công.[1][32]
Sau các trận đánh trên biên giới, nhà Tống sa thải các quan lại hiếu chiến như Tiêu Cố, Tiêu Chú, đồng thời cử Dư Tĩnh sang điều đình với Đại Việt. Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hòa đàm, đối đãi với Dư Tĩnh rất hậu nhưng cương quyết không trả Dương Bảo Tài và quân dân bị bắt.[24][1][32]
Sau khi bị Lý Thái Tông đánh bại trong chiến dịch Nam chinh năm 1044, nước Chiêm Thành một mặt cống nạp lễ vật, thú lạ cho nhà Lý, nhưng mặt khác họ ngấm ngầm thao luyện binh sĩ và thắt chặt quan hệ với nhà Tống, chờ thời cơ báo thù Đại Việt. Năm 1065, vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đình chỉ việc cống nạp cho nhà Lý, sau đó năm 1068 quân Chiêm kéo sang quấy nhiễu biên giới.[33][34][26] Tháng 2 âm lịch năm 1069, Lý Thánh Tông quyết định mở chiến dịch đánh Chiêm. Ông thân chinh cầm quân tấn công, đánh tan quân Chiêm Thành và bắt được Chế Củ.[35]
Về cuộc chiến năm 1069, Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi nhận:[35]
Sách Đại Việt sử lược không nhắc đến thành tích của Nguyên phi Ỷ Lan, nhưng mô tả chi tiết hơn về những chặn đường chinh phạt của Lý Thánh Tông với những chiến thắng ở cửa biển Nhật Lệ, sông Tu Mao và chiếm đóng quốc đô Phật Thệ:[36]
Sau chiến thắng, Lý Thường Kiệt giải Chế Củ đem về Thăng Long, được Lý Thánh Tông phong làm Thiên tử nghĩa nam vì công lao này.[34][35] Vua Chiêm xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và tha cho Chế Củ về nước.[35][37][38] Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hòa, Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình) và huyện Bến Hải (tỉnh Quảng Trị). Trong số tù binh Chiêm Thành bị bắt về Đại Việt có một thiền sư người Tống là Thảo Đường, sau này là Quốc sư của triều đình Lý Thánh Tông và là Tổ khai sáng Thiền phái Thảo Đường - một trong 3 thiền phái của Phật giáo Đại Việt thời Lý.[39][40]
Thắng lợi của Lý Thánh Tông tại Chiêm Thành đã làm cho các lân bang phải kiêng dè Đại Việt. Cuối năm 1069, Hoàng đế Thánh Tông cử Quách Sĩ An làm Chánh sứ, Đào Tông Nguyên làm Phó sứ sang báo cho người Tống về việc đánh bại Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm. Tống Thần Tông trong bụng không thích, song đành thừa nhận Chiêm Thành là chư hầu của Đại Việt. Chính quyền Tống cũng nghiêm cấm các tướng ở biên giới khiêu khích, gây hấn với Đại Việt. Còn ở phía Nam, Chân Lạp và Chiêm Thành lần lượt sai sứ sang dâng lễ cống vào các năm 1069, 1071.[36][34]
Ngày Canh Dần tháng 1 năm Nhâm Tý (tức ngày 1 tháng 2 năm 1072), vua Lý Nhật Tôn qua đời ở điện Hội Tiên[36], trị vì được 17 năm, hưởng dương 49 tuổi. Triều đình dâng miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng đế (應天崇仁至道威慶龍祥明文睿武孝德聖神皇帝) và an táng ở Thọ Lăng (phủ Thiên Đức).[36][41]
Thái tử Lý Càn Đức lên ngôi trước linh cữu Thánh Tông, tức Lý Nhân Tông. Nhà vua mới 7 tuổi nên chỉ định mẹ đích là Thượng Dương Thái hậu, mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên phi cùng Thái sư Lý Đạo Thành trông coi chính sự.[42]
Sử thần thời Lê sơ Ngô Sĩ Liên, trong bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư do ông soạn năm 1479, có bình luận:[42]
“ |
Xót thương vì hình ngục, nhân từ với thần dân, là việc đầu tiên của vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết vì đói rét, cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ việc hình ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng, đều là thành thực. Huống chi lại tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam bình Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có người bảo là vua nhân nhu có thừa mà cương đoán không đủ, ngụ ý chưa cho là phải. |
” |
— Ngô Sĩ Liên |
Sử thần Lê Tung đời Lê Tương Dực, tác giả bộ Đại Việt thông giám tổng luận (1514), cũng đánh giá Lý Thánh Tông:[43]
“ |
Thánh Tông thương dân, trọng nông, vỗ người xa, yêu người gần, đặt khoa bác học, trọng lệnh dưỡng liêm, đặt quan bí các, làm đường Minh Luân, sửa sang việc văn, chuẩn bị việc võ, trong nước đều yên tĩnh, là bậc vua hiền nối đức trước vậy. Song nhọc sức dân để xây tháp Báo Thiên, phí của dân để dựng cung Dâm Đàn, đó là chỗ kém. |
” |
— Lê Tung |
Tháng 12-2020, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội quyết định gắn biển "Đường Lý Thánh Tông" cho một con đường ở Huyện Gia Lâm. Trước đó 1 lần, ở quận Đồ Sơn, Hải Phòng cũng có 1 con phố cùng tên.[44]
STT | Danh hiệu | Tên | Sinh mất | Cha | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Thượng Dương Hoàng Hậu
(上陽皇后) |
Dương Thị
(楊氏) |
?-1073 | Bà là chính thất của Lý Thánh Tông và là mẹ đích (không phải mẹ đẻ) của Lý Nhân Tông.
Theo dã sử và một số nguồn thư tịch dân gian, Hoàng hậu Thượng Dương sinh hạ được hai công chúa là Từ Thục, Từ Huy. Sau này, hai công chúa xuất gia. | |
2 | Nguyên Phi Ỷ Lan
(元妃倚蘭) |
Lê Thị
(黎氏) |
1044-1117 | Sau khi nhập cung bà được vua Lý Thánh Tông ban tên Ỷ Lan (倚蘭)
Bà còn được gọi là Linh Nhân Hoàng thái hậu. Bà là thân mẫu của vua Lý Nhân Tông. | |
3 | Thứ phi | Dương thị | ?-? | Không rõ | Không rõ nhập cung khi nào nhưng có con gái là Công Chúa Thiên Thánh. |
4 | Còn 8 hoàng hậu và một số phi tần khác |
STT | Danh hiệu | Tên | Sinh mất | Mẹ | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Lý Nhân Tông
(李仁宗) |
Lý Càn Đức
(李乾德) |
1066-1127 | Nguyên Phi Ỷ Lan
(元妃倚蘭) |
Kế vị Lý Thánh Tông trở thành hoàng đế thứ 4 của triều Lý. |
2 | Minh Nhân vương
(明仁王) |
Lý Càn Quyết | 1068-? | Nguyên Phi Ỷ Lan
(元妃倚蘭) |
Em trai ruột của Lý Nhân Tông.[1] |
3 | Sùng Hiền Hầu
(崇贤侯) |
1069-1130 | Không rõ | Phụ thân của Lý Thần Tông |
Nghĩa Nam Vương Lý Hưng Tích
STT | Danh hiệu | Tên | Sinh mất | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
1 | Công chúa Động Thiên
(洞天公主) |
Lý Thị
(李氏) |
?-? | |
2 | Công chúa Thiên Thánh
(天圣公主) |
Lý Thị
(李氏) |
?-? | Con gái của Thứ phi Dương thị. |
3 | Công chúa Bình Dương
(平阳公主) |
Lý Thị
(李氏) |
?-? | |
4 | Công chúa Ngọc Kiều | Lý Ngọc Kiều
(李玉嬌) |
1042-1113 | Bà là con gái lớn của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung là em trai của Lý Thánh Tông.
Được vua Lý Thánh Tông nhận làm con nuôi |
5 | Công chúa Từ Thục | Lý Thị
(李氏) |
?-? | Theo dã sử là con gái của Thượng Dương Hoàng Hậu. |
6 | Công Chúa Từ Huy | Lý thị
(李氏) |
?-? | Theo dã sử là con gái của Thượng Dương Hoàng Hậu. |
|tựa đề=
và |title=
(trợ giúp)