Lận Tương Như 藺相如 | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | không rõ |
Mất | không rõ |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | chính khách |
Quốc tịch | Triệu |
Lận Tương Như[1] (chữ Hán: 藺相如, ?-?), thường phiên âm là Lạn Tương Như, là chính khách nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là người giỏi ứng xử để giữ uy tín của nước Triệu trong chư hầu.
Ban đầu, Lạn Tương Như có xuất thân không cao. Ông làm môn hạ của người cầm đầu các hoạn quan nước Triệu là Mục Hiền.
Mục Hiền từng có tội, định chạy trốn sang nước Yên. Khi đó Lạn Tương Như cản lại, can rằng:
Mục Hiền đáp:
Tương Như bảo Mục Hiền:
Mục Hiền nghe theo kế ấy, đến tạ tội Triệu Huệ Văn vương, được vua Triệu tha tội.
Đời vua Huệ Văn Vương, nước Triệu được viên ngọc bích của họ Hoà nước Sở[2] là bảo vật nổi tiếng trong chư hầu khi đó. Vua Chiêu Vương nước Tần nghe tin, sai người đưa thư cho vua Triệu, xin đem mười lăm thành để đổi lấy viên ngọc bích. Vua Triệu cùng đại tướng quân Liêm Pha và các vị đại thần bàn rằng: Nếu cho Tần ngọc bích thì sợ không được thành của Tần, chỉ bị lừa, nếu không cho thì lại lo binh Tần đến đánh. Kế chưa quyết định, tìm người có thể sang trả lời Tần, tìm mãi chưa được ai.
Khi đó hoạn quan Mục Hiền bèn tiến cử Lạn Tương Như với Triệu Huệ Văn vương. Vua Triệu liền cho mời ông đến, hỏi Lạn Tương Như:
Tương Như nói:
Vua Triệu nói:
Lạn Tương Như nói:
Vua Triệu hỏi:
Lạn Tương Như nói:
Triệu Vương bèn sai Tương Như mang ngọc sang hướng Tây vào đất Tần.
Vua Tần Chiêu Tương vương[3] đón tiếp Tương Như ở Chương đài. Ông mang ngọc bích dâng vua Tần. Vua Tần mừng rỡ, trao cho các mỹ nhân và các quan hầu xem, các quan hầu đều hô: Vạn tuế!
Tương Như thấy vua Tần không có ý cắt thành cho Triệu, bèn tìm cách lấy lại ngọc quý. Ông tiến lên nói:
Vua Tần không biết là kế, bèn trao ngọc bích, Tương Như nhân cầm ấy ngọc, đứng lùi tựa vào cột, nổi giận nói:
Tương Như cầm viên ngọc, nhằm cái cột, làm như muốn đập đầu và cả ngọc vào cột. Vua Tần sợ ông đập vỡ viên ngọc nên vội ngăn lại, gọi quan đương sự cầm địa đồ đến, chỉ chỗ 15 thành từ chỗ này trở đi để cắt cho nước Triệu. Tương Như đoán vua Tần chỉ lừa dối, tuy giả vờ cho Triệu thành, nhưng thực ra thì không thể được thành, bèn bảo vua Tần:
Vua Tần thấy không có cách gì ép được, bèn hứa với ông trai giới 5 ngày, cho Tương Như ở lại quán tân khánh Quảng Thành. Ông đoán vua Tần tuy trai giới, nhưng thế nào cũng bội ước không trao thành, nên sai người hầu đi theo đoàn sứ của mình mặc áo ngắn, mang viên ngọc đi theo đường tắt, trốn về nộp lại ngọc bích cho vua Triệu.
Vua Tần sau khi trai giới 5 ngày bèn đặt lễ cửu tân ở triều đình để tiếp Lạn Tương Như. Tương Như đến, nói với vua Tần:
Vua Tần và quần thần nhìn nhau cùng hậm hực, các tướng Tần muốn giết ông nhưng vua Tần ngăn lại nói:
Do đó, vua Tần vẫn tiếp Tương Như ở triều đình, lễ xong cho về. Sau khi Tương Như về, vua Triệu khen ông là một quan đại phu giỏi, đi sứ không khuất nhục với chư hầu, bèn phong ông làm thượng đại phu.
Kết quả sau đó Tần không đổi thành cho Triệu mà Triệu cũng không đem ngọc bích cho Tần.
Nước Tần bực nước Triệu không dâng ngọc, năm 282 TCN vua Tần cử binh đánh Triệu, lấy Thạch Thành. Năm sau, Tần lại đánh Triệu, giết hai vạn người. Vua Tần sai sứ giả nói với Triệu Huệ Văn Vương muốn họp nhau ở Dẫn Trì, ngoài Tây Hà[5] để giảng hoà. Vua Triệu lo lắng, định không đi.
Võ tướng Liêm Pha cùng Lạn Tương Như bàn rằng nếu vua Triệu không đi thì tỏ ra nước Triệu yếu và nhát. Vua Triệu bèn quyết định đi, cho Tương Như đi theo.
Hai bên hội họp ở Dẫn Trì. Tần Chiêu Tương vương uống rượu say, nói:
Vua Triệu bèn cầm đàn đàn sắt gảy. Ngự sử nước Tần tiến lên chép:
Vua quan nước Tần cố ý hạ thấp nước Triệu. Tương Như bèn nghĩ kế trả đũa. Ông tiến lên nói:
Vua Tần giận không chịu. Nhưng Tương Như cứ tiến lên dâng cái vùa. Nhân quỳ xuống mời vua Tần, vua Tần không chịu gõ. Tương Như cứng cỏi nói:
Các hộ vệ của vua Tần muốn chém Tương Như. Ông trợn mắt quát khiến tả hữu đều dạt ra. Vua Tần không vui, đành miễn cưỡng gõ vùa một cái vào phẫu. Tương Như quay lại gọi ngự sử nước Triệu viết:
Quần thần nước Tần nói:
Lạn Tương Như cũng nói:
Vua Tần xong tiệc rượu, không tranh hơn được với vua Triệu. Nước Triệu cũng đặt sẵn nhiều quân lính để đợi Tần nên quân Tần không dám cử động.
Khi tan hội về nước, vua Triệu cho rằng Tương Như có công to, phong làm thượng khanh.
Lạn Tương Như được vua Triệu cất nhắc, địa vị của ông ở trên võ tướng Liêm Pha. Liêm Pha bất mãn nói:
Rồi Liêm Pha rêu rao:
Tương Như nghe vậy, ông tìm cách không chịu hội họp với Liêm Pha. Mỗi lần có buổi chầu, Tương Như thường cáo bệnh không muốn tranh ngôi thứ với Liêm Pha. Một hôm, Tương Như đi ra trông thấy Liêm Pha, Tương Như quay xe tránh. Những người môn hạ bèn cùng nhau can:
Tương Như cố cản lại, nói:
Liêm Pha nghe lời mọi người thuật lại như vậy, tự biết mình có lỗi, bèn cởi trần mang roi nhờ tân khách đưa đến cửa nhà Lạn Tương Như tạ tội, nói:
Từ đó hai người cùng nhau vui vẻ làm bạn sống chết có nhau. Nước Triệu có hai tướng văn võ phò trợ nên được vững mạnh, không bị Tần lấn chiếm, người ta gọi giai thoại nổi tiếng này là "Tướng tướng hòa".
Năm 269 TCN dưới thời vua mới là Triệu Hiếu Thành vương, Lạn Tương Như làm tướng, mang quân đi đánh Tề, đánh đến Bình ấp rồi rút lui.
Năm 263 TCN, khi Tần bắt đầu mang quân đánh Triệu, Sử ký ghi "Lạn Tương Như bị bệnh nặng". Liêm Pha cầm quân cố thủ mãi không chịu đánh quân Tần, vua Triệu sốt ruột sai Triệu Quát là con của danh tướng Triệu Xa đã mất[8] ra thay. Lạn Tương Như nói:
Vua Triệu không nghe, bèn cho Quát làm tướng. Kết quả tới năm 260 TCN xảy ra trận Trường Bình nổi tiếng, Triệu Quát đại bại bị tử trận, nước Triệu bị tổn thất hơn 40 vạn người đúng như lời tiên liệu của Lạn Tương Như.
Sử sách sau đó không ghi chép về ông nữa, không rõ Lạn Tương Như mất khi nào.
Trong giai thoại văn học Việt Nam có lưu truyền câu đối nhắc tới Lạn Tương Như. Truyện kể vào thời Hậu Lê có một người học trò tên là Hòe, cùng tên với quan chủ khảo, vì vậy khi anh vào thi, người xướng danh gọi chệch đi là "Huề". Anh học trò không chịu vào, mãi tới khi người xướng danh phải gọi "Hoè" anh mới chịu vào.
Quan chủ khảo bực mình, muốn trị tội bướng bỉnh của anh học trò, liền ra vế đối, thách anh học trò đối được mới tha tội:
Nghĩa là:
Vế đối chơi chữ, lấy nghĩa "tương như" là "như nhau" từ tên hai nhân vật trong lịch sử Trung Quốc, với nghĩa bóng ám chỉ anh học trò tuy giống tên chủ khảo nhưng không thể bằng ông ta được.
Anh Hoè bèn đối lại:
Nghĩa là:
Vế đối lại cũng chơi chữ, lấy nghĩa "vô kỵ" là "không kiêng kỵ (không úy kỵ)" từ tên của hai nhân vật khác trong lịch sử Trung Quốc, ý nói rằng ông tuy ra oai nhưng tôi đây không kiêng kỵ gì cả.
Quan chủ khảo đành chịu, không trị tội anh học trò.