Quan Vũ
| |
---|---|
Hình vẽ Quan Vũ (áo xanh) cùng Quan Bình (mặt trắng), Chu Thương (cầm đao) bắt được Bàng Đức (mặc khố)
| |
Tên thật | Quan Vũ (giản thể: 关羽, phồn thể: 關羽) |
Tự | Trường Sinh (長生) Vân Trường (雲長) |
Hiệu | Hán Thọ Đình hầu (漢壽亭侯) |
Tên khác | Mỹ Nhiêm Công (美髯公) Quan Công (關公) Quan Thánh (關聖) Quan Thánh Đại Đế (關聖大帝) Quan Nhị Ca (關二哥) |
Thông tin chung
| |
Thế lực | Lưu Bị→Tào Tháo→Lưu Bị (Thục Hán) |
Chức vụ | Tiền Tướng Quân (前將軍) |
Sinh | 158? Huyện Giải, quận Hà Đông (nay là Vận Thành, Sơn Tây) |
Mất | 220 (khoảng hơn 60 tuổi) Lâm Thư, Kinh Châu (nay là Nam Chương, Tương Dương, Hồ Bắc) |
Thụy hiệu | Tráng Mậu Hầu (壯繆侯) |
Tước hiệu | Hán Thọ Đình hầu (漢壽亭侯) |
Con cái | Quan Bình (con trai trưởng) Quan Hưng (con trai thứ) Quan Thị (con gái) |
Quan Vũ (chữ Hán: 關羽, bính âm: Guān Yǔ, 158?–220),[1] hay Quan Công, tự Vân Trường (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, nhưng thất bại của ông khi đóng giữ Kinh Châu là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhà Thục Hán bị suy yếu đáng kể.
Trong dân gian, Quan Vũ thường được xem là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi, và là người đứng đầu trong số Ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Thực tế, các tài liệu lịch sử không ghi chép về việc Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi từng làm lễ kết nghĩa (chỉ ghi rằng họ có quan hệ rất thân thiết, "ân tình như anh em"); chức danh Ngũ hổ tướng cũng chỉ là hư cấu (tuy nhiên đúng là Quan Vũ đã được phong làm Tiền Tướng quân, chức vụ cao nhất trong quân đội Thục Hán).[2]
Quan Vũ là được đánh giá là vị tướng có tài năng, võ nghệ dũng mãnh, được người đương thời nhận xét là "sức địch vạn người, hổ thần một thời, có phong độ quốc sĩ"[3] "có tài và có nghề"[4]. Về tính cách, ông tuy có nhược điểm là kiêu ngạo, hay quát mắng người khác[4] và cư xử có những lúc nông nổi[5] – tất cả đều dẫn đến cái chết của ông – nhưng ưu điểm của ông là lòng can đảm, tôn sùng lễ giáo, hào hiệp trượng nghĩa, sự kiên cường và lòng trung thành tuyệt đối, những ưu điểm này được người dân đánh giá rất cao, ngay cả Tào Tháo cũng khâm phục và coi ông là một "nghĩa sĩ thiên hạ". Ông được người đời sau coi là một biểu tượng của những đức tính "Danh lợi không đổi lòng, Giàu sang không dâm loạn, Nghèo hèn không nhụt chí, Oai vũ không khuất phục".
Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng Quan Công (關公) đã được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy, tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng v.v... và sau này là phim ảnh, với những chiến tích (cả có thật lẫn hư cấu) và phẩm chất đạo đức được đề cao. Hơn 500 năm sau khi chết, vào năm 782, Quan Vũ được Đường Đức Tông đưa vào Võ miếu, nơi thờ cúng các danh tướng trong lịch sử; sau đó lại được các hoàng đế nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh phong tước, phong đế, được thờ cúng ở nhiều nơi. Nhờ Thanh Thái Tổ là người hâm mộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa,[6] vào thế kỷ 17 ông được các hoàng đế nhà Thanh (1636–1912) tôn vinh là Võ thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cũng là vị võ tướng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc có 1 điện thờ riêng tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng tài năng và tận trung nhất qua các triều đại), và phần lớn các võ miếu ở các làng xã Trung Quốc đều có tượng thờ ông với hình mẫu là mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố.
Quan Vũ có biểu tự là Trường Sinh (長生) sau đổi thành Vân Trường (雲長), người Giải Lương, quận Hà Đông . Tam Quốc ngoại truyện cho rằng ông là người Bồ châu.[7]
Các sách sử chính thống không có ghi chép gì về tổ tiên của Quan Vũ. Quan Đế minh thánh kinh (một ghi chép tôn giáo được cho là do chính "Quan Thánh" viết bằng cách nhập hồn vào người lên đồng) cho rằng cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm (關審), tự là Vấn Chi (問之); cha ông là Quan Nghị (關毅), tự là Đạo Viễn (道遠).[8]
Không rõ gia cảnh Quan Vũ thế nào, nhưng ông được học cả văn lẫn võ.[9] Tam quốc chí ghi chép rằng theo Giang Biểu truyện thì thời trẻ Vũ rất thích Tả truyện, "thường đọc ngâm nga những chỗ mưu lược đầy vẻ thích thú".
Do phạm tội, ông phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác (Quan Vũ truyện chỉ ghi: "Sau có tội, bỏ xứ lưu lạc đến Trác Quận", không rõ tội gì, nhưng nhiều giai thoại dân gian cho là ông đã giết một gã côn đồ khi hắn đòi tiền bảo kê trong chợ). Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ với Lưu Bị và Trương Phi, trở nên thân thiết như anh em.
Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác nổi lên, Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị khởi binh tham gia cùng quân triều đình đánh dẹp khởi nghĩa.
Trong quá trình đàn áp khởi nghĩa nông dân Khăn Vàng, Vũ và Phi là hai cánh tay đắc lực của Lưu Bị. Tam quốc chí chép: Tiên chủ (Lưu Bị) cùng với hai người (Quan Vũ, Trương Phi) ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày, mọi thứ đều do Tiên chủ chu toàn, chẳng tị hiềm gian khổ.
Lưu Bị theo Công Tôn Toản (vốn là bạn học từ nhỏ, Bị coi như anh)[10], được cho làm Bình Nguyên tướng, bèn bổ nhiệm Vũ và Phi làm Biệt hộ Tư mã, chia nhau thống lĩnh quân của Lưu Bị.
Đổng Trác tiến kinh khống chế triều đình, phế Hán Thiếu Đế, lập Lưu Hiệp làm Hán Hiến Đế, chuyên quyền lộng hành, chư hầu khắp nơi bất bình.
Năm 190, Kiều Mạo phát hịch kể tội trạng của nghịch thần Đổng Trác, hiệu triệu chư hầu chống Đổng. Chư hầu khắp nơi hưởng ứng, bầu Viên Thiệu làm minh chủ, tiến đánh Đổng Trác. Công Tôn Toản và Lưu Bị không tham gia.
Năm 193, Tào Tháo mang quân đánh Từ châu báo thù cho cha vì nghi quan mục Từ châu Đào Khiêm là chủ mưu giết Tào Tung (cha Tào Tháo). Đào Khiêm cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Khải lại cầu cứu đến Công Tôn Toản. Toản bèn sai Lưu Bị đi cứu. Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị đi cứu Từ châu với mấy cánh quân cứu viện cùng quân Từ châu tạo thế ỷ dốc khiến quân Tào không thể hạ được thành.
Không lâu sau, Lã Bố đánh chiếm Duyện châu của Tào Tháo. Tào Tháo buộc phải mang quân trở về cứu, Từ châu được giải vây. Đào Khiêm rất cảm phục Lưu Bị đã cứu giúp.
Năm 194, do tuổi già sức yếu nên trước khi qua đời, Đào Khiêm tiến cử Lưu Bị làm Từ châu mục.
Lã Bố bị Tào Tháo đánh bật khỏi Duyện châu, bèn chạy đến Từ châu theo Lưu Bị. Ít lâu sau Viên Thuật mang quân đánh Từ châu, trong khi Lưu Bị đang cùng Thuật giao tranh thì Lã Bố đồng mưu với Thuật đánh úp thành Từ châu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mắc kẹt ở Quảng Lăng không có đường về, đành phải trở lại Từ châu hàng Lã Bố, được Bố cho ở thành nhỏ Tiểu Bái.
Năm 198, Lã Bố lại trở mặt đánh Tiểu Bái. Tuy Quan Vũ và Trương Phi khỏe mạnh hơn người nhưng vì quân ít nên vẫn bị bại trận và theo Lưu Bị chạy khỏi Tiểu Bái và cầu viện Tào Tháo.
Tháng 9 năm đó, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ cũng dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10, cuối cùng Lã Bố bị tướng của mình làm phản, bị bao vây ở lầu Bạch Môn, bị bắt và xử tử.
Tam quốc chí trích dẫn Thục Ký và Ngụy thị Xuân Thu chép rằng: Lã Bố sai Tần Nghi Lộc đi cầu cứu Viên Thuật, Thuật giữ Nghi Lộc ở lại và gả cho vợ mới. Quan Vũ xin Tào Công (Tào Tháo) cho được lấy vợ cũ của Tần Nghi Lộc là Đỗ thị, Công đồng ý. Sau khi phá được Lã Bố, Vũ lại đến xin lấy người đó làm vợ. Công ngờ rằng Đỗ thị có nhan sắc, mới sai người đưa về xem trước, rồi giữ lại cho mình, nhận con của thị là Tần Lãng làm con nuôi. Vũ trong lòng bất an.[11]
Sách Thục ký chép rằng: trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng có nhận người đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được. Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai ông mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.[12]
Tào Tháo thu quân về Hứa Xương, không trả lại Từ châu (vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho) mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ, giữ Bị lại Hứa Xương để kiềm chế.
Sách Thục ký chép rằng: Có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo nhưng Lưu Bị không nghe theo vì tình thế không cho phép manh động.[13]
Năm 199, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật, Tào Tháo cấp 1000 quân cho đi. Quan Vũ và Trương Phi lại hộ vệ Lưu Bị ra mặt trận, giúp Lưu Bị đánh bại Thuật. Thuật thua trận ốm chết.
Lưu Bị thừa cơ dẫn quân đánh chiếm Từ Châu, rồi giết chết Xa Trụ. Quan Vũ được bổ nhiệm làm thái thú Hạ Bì.
Đầu năm 200, Tào Tháo chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh, Lưu Bị ít quân không chống nổi, thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy, bị bắt, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.
Tam quốc chí ghi: "năm Kiến An thứ năm, Tào Công đông chinh, Tiên chủ thua chạy sang với Viên Thiệu, Tào công bắt được Vũ đem về."
Sử sách ghi rằng Tào Tháo bắt được Quan Vũ, cho "làm Thiên tướng quân, ban cho lễ cực hậu".
Tam quốc chí viết: Tào Công thấy Vũ là người hùng tráng, muốn tỏ ý lưu lại lâu dài, mới bảo Trương Liêu dò hỏi ý Quan Vũ. Vũ thở dài nói: "Ta biết Tào Công đãi ta rất hậu, nhưng ta đã chịu hậu ân của Lưu tướng quân, thề cùng sống chết, chẳng thể bội ước. Ta thà chết chứ chẳng ở lại được, ý ta muốn lập công để báo ơn Tào công rồi sẽ ra đi."
Phó Tử viết: Liêu sợ Thái Tổ (Tào Tháo) giết Vũ, than thở rằng: "Tào Công là chúa ta; Vũ là anh em của ta", rồi đành phải báo lại ý định của Quan Vũ. Thái tổ nói: "(Vũ) thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ thiên hạ vậy."
Viên Thiệu theo lời khẩn cầu của Lưu Bị bèn dẫn quân đi đánh Tào Tháo. Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo đi cứu Bạch Mã, đem theo Quan Vũ và Trương Liêu; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, đột kích giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã, được Tào Tháo phong làm Hán Thọ đình hầu (漢壽亭侯).
Tháng 5 năm 200, Quan Vũ cùng Trương Liêu lại theo Tào Tháo đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Quân Tào đánh bại quân họ Viên một trận nữa tại đây, Văn Xú tử trận.
Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó Tào Tháo hạ lệnh lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân. Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Tào Tháo xét công trạng, ban thưởng cho Quan Vũ rất nhiều.
Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tự lập. Quan Vũ sau khi đã lập công trả ơn cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị. Trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi.[14] Thủ hạ của Tào Tháo muốn truy kích ông nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo.
Tam quốc chí ghi: Quan Vũ giết được Nhan Lương, tức là đã hoàn thành lời hứa lập công để báo ơn Tào Tháo. Tào Tháo biết Vũ tất bỏ đi, bèn tặng thưởng thêm rất hậu để mong rằng Quan Vũ sẽ đổi ý, không bỏ đi theo Lưu Bị nữa. Vũ liền gói ghém hết những đồ thưởng để lại, viết thư cáo từ, rồi đi đến chỗ Tiên chủ (Lưu Bị) ở bên quân Viên. Tả hữu muốn đuổi theo, Tào công nói: "Người ấy bỏ đi vì chủ, chớ nên đuổi theo".
Sau đó ông gặp lại được Lưu Bị và Trương Phi, cùng nhau xây dựng lại lực lượng. Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Trong khi đó, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ năm 200 và năm sau lại đánh bại Thiệu một trận nữa ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp.
Tháng 6 năm 201, trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo mang quân về Hứa Xương rồi sai Sái Dương mang quân tấn công Lưu Bị ở Nhữ Nam. Sái Dương tử trận, Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.
Năm 208, Tào Tháo sau khi diệt họ Viên, làm chủ toàn bộ trung nguyên, bèn mang quân đánh Kinh châu. Lưu Bị từ Phàn Thành, chuẩn bị mang dân vượt sông, sai Quan Vũ mang mấy trăm chiến thuyền theo dòng sông, hẹn hội binh ở Giang Lăng.
Tào Tháo sợ Lưu Bị chiếm mất Giang Lăng là chỗ chứa nhiều lương thảo, bèn sai 5000 quân kỵ gấp rút đuổi theo. Tào Thuần đuổi kịp Lưu Bị ở Đương Dương-Trường Bản. Quân Lưu Bị ít, laị có đông dân chúng đi theo nên không chống nổi, quân Tào bắt được gia quyến của Bị (gồm phu nhân và hai con gái) cùng mẹ của Từ Thứ. Lưu Bị bỏ chạy về Hán Tân và gặp Quan Vũ ở đó.
Tập hợp lực lượng trở lại, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền. Chu Du chỉ huy liên quân, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích cuối năm 208, Quan Vũ cũng cùng Lưu Bị tham chiến. Tào Tháo bại binh, phải nhanh chóng trở về giữ phương bắc, giao cho Tào Nhân và Từ Hoảng ở lại giữ thủ huyện Nam Quận là Giang Lăng, sai Nhạc Tiến giữ Tương Dương.
Lưu Bị và Tôn Quyền đều muốn nhân đà thắng lợi để giành lấy vùng đất chiến lược Kinh châu. Chu Du cầm vài vạn quân tiền tuyến từ Xích Bích, Ô Lâm tiến đánh Giang Lăng. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi mang hơn 1000 quân mã đóng ở bờ nam sông Trường Giang cùng tiến.
Quan Vũ theo lệnh biệt phái của Lưu Bị và Chu Du, mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân.
Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông dẫn quân đánh Quan Vũ. Vũ thúc quân bủa vây. Lý Thông và các tướng sĩ xuống ngựa nhổ hết chông chà, xông vào vòng vây, vừa đánh vừa tiến lên, cuối cùng phá được vây, đánh lui quân Quan Vũ.[17]
Nhạc Tiến khi ấy khởi quân ra thành Tương Dương, đánh bại quân Quan Vũ. Sau đó, Vũ lại dùng thủy binh vây Thượng Giang, nhưng Nhạc Tiến và Văn Sính lại đánh lui được Vũ ở gần Hạ Khẩu, khiến đường nối phía bắc với Giang Lăng của quân Tào được thông suốt.[18]
Văn Sính lại tiếp tục dùng thủy quân đuổi đánh Quan Vũ ở Tầm Khẩu, lấy được kho lương và đốt sạch chiến thuyền của Vũ. Với chiến công đó, Sính được tấn phong tước Diên Thọ Đình hầu và chức Thảo nghịch tướng quân.[19]
Chiến dịch bao vây Giang Lăng kéo dài hơn 1 năm mới kết thúc. Tháng chạp năm 209, trước sự vây bức ngày càng ác liệt của quân Đông Ngô, Tào Tháo lệnh cho Tào Nhân bỏ thành Giang Lăng rút về Tương Dương. Chu Du thúc quân vào chiếm đóng Giang Lăng và các huyện phụ cận.
Tuy chưa chiếm được toàn bộ Nam quận nhưng Tôn Quyền đã giành quyền kiểm soát đại bộ phận phía nam; chỉ còn Tương Dương vài huyện quanh đó vẫn trong tay Tào Tháo. Chu Du được Tôn Quyền phong làm Thái thú Nam quận, thiết lập chiến tuyến tiền tiêu tại đây trong cuộc đối đầu với Tào Nhân.
Trong khi Lưu Bị và Trương Phi tham gia tác chiến cùng Chu Du, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Triệu Vân phối hợp với Lưu Kỳ tấn công 4 quận phía nam Kinh châu. Vũ được phong thái thú Tương Dương, Đãng khấu tướng quân.[20] Tuy nhiên, trên thực tế thành Tương Dương vẫn nằm trong tay quân Tào, nên Quan Vũ chỉ đóng giữ Giang Bắc.
Tháng 12 năm 211, Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên chiếm đất của Lưu Chương, Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh Châu. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận.[21] Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị tiếp quản phần nửa quận Giang Hạ. Quan Vũ tiếp quản Kinh châu từ tay Lưu Bị với lãnh thổ 4 quận rưỡi.
Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ[22] nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng "mượn" lâu ngày không trả.
Năm 214, nhân lúc Lưu Bị đã vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân tướng, Tôn Quyền sai người đón em gái về, sau đó lại phái Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu trong tay Quan Vũ. Quân Đông Ngô đông đảo, đánh chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và quận Vũ Lăng.
Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc. Tôn Quyền cũng đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương.
Cam Ninh theo Lỗ Túc đến trấn phủ canh giữ Ích Dương, chống lại Quan Vũ. Vũ cho ba vạn quân, đích thân tuyển chọn ra lấy dũng sĩ 5000 người, đưa đến chỗ nước cạn trên thượng du cách huyện hơn mười dặm, bảo rằng muốn đang đêm vượt sông sang.
Lỗ Túc với các tướng cùng nhau bàn luận. Ninh lúc ấy có 300 quân, bèn nói: "Có thể lại đem thêm 500 quân nữa cấp cho tôi. Tôi đến đó chống chọi. Đảm bảo Vũ nghe tiếng tôi ho hắng khạc nhổ không dám lội xuống nước, mà nếu có lội xuống tất bị tôi bắt."
Túc lập tức chọn lấy nghìn quân trao thêm cho Ninh. Ninh trong đêm đến nơi. Vũ nghe tin, e ngại quân Ngô đã đặt sẵn mai phục nên thôi không vượt sông nữa mà dựng trại gỗ đóng quân bên sông. Nhân đó ngày nay tên xứ ấy là "khe Quan Vũ" (關羽瀨).[23]
Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Lỗ Túc hỏi Quan Vũ:
“ | Ba quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa là bên tôi cho các ông mượn, sao các ông không trả lại? | ” |
Quan Vũ đáp:
“ | Trong trận Xích Bích - Ô Lâm, Tả tướng quân (Lưu Bị) thân trong bộ ngũ, cùng các ông nhất tề ra sức, phá được quân địch, sao không được chia mảnh đất nào? | ” |
Lỗ Túc nói tiếp:
“ | Lần đầu tiên ta gặp Lưu Dự châu (Lưu Bị) của các ông ở Đương Dương Tràng Bản, quân số ông ta không đầy một hiệu, bản thân ông ta hết cách, muốn chạy nạn tới nơi xa. Chúa thượng bọn ta (Tôn Quyền) thương ông ta không nơi nương tựa nên cho ông ta chỗ yên thân (Kinh châu). Không ngờ Lưu Dự châu biết làm việc đạo đức lại vứt bỏ tình nghĩa, bây giờ đã có Ích châu lại muốn có cả Kinh châu. Đó là chuyện người thường cũng không huống chi Dự châu sao có thể như thế? | ” |
Quan Vũ không trả lời được.[24] Cuối cùng hai bên giảng hòa, cùng thu quân trở về.
Năm 215, thấy tình hình bất lợi (Tào Tháo chiếm Hán Trung từ tay Trương Lỗ, uy hiếp Tây Xuyên) và không thể dùng vũ lực đoạt lại các quận đã mất, Lưu Bị đành phải nhượng bộ Tôn Quyền, đề nghị chính thức công nhận chủ quyền 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa cho Đông Ngô, xin đổi lấy Nam quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Quan Vũ tiếp nhận quận Giang Lăng, tướng của Tôn Quyền là Trình Phổ giao lại Giang Lăng, về giữ chức thái thú Giang Hạ. Tôn Quyền giao thêm phần nửa Nam quận cho Quan Vũ; đổi lại Quan Vũ chính thức giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Như vậy địa bàn Kinh châu của Quan Vũ từ năm 215 chỉ gồm có các quận Vũ Lăng, Giang Lăng và một nửa Nam quận, nửa Nam quận kia vẫn thuộc về quân Tào Tháo[25]
Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân với Lưu Bị, bèn sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Tuy nhiên, Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu như Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh, không những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Ông quát vào mặt sứ giả Đông Ngô:
“ | Con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho loài chó à![26] | ” |
Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Kinh châu lại căng thẳng như trước. Người duy nhất chủ trương giữ hòa khí với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời nên Tôn Quyền quyết định ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.[27]
Tam quốc chí chép: Quan Vũ từng bị trúng tên (không nói rõ lúc nào), bắn xuyên cánh tay trái, sau vết thương tuy đã khỏi nhưng mỗi lúc mưa dầm trở gió, xương cốt vẫn thường đau nhức, thầy thuốc chẩn đoán rằng: “Mũi tên có thuốc độc, chất độc ấy thấm vào xương cốt, giờ phải khoét thịt ở cánh tay bị thương, nạo xương trừ bỏ chất độc, rồi sau mới điều trị được gốc bệnh.” Quan Vũ liền duỗi tay sai thầy thuốc chữa trị. Lúc ấy, Vũ cùng chư tướng uống rượu nói chuyện, máu trên cánh tay chảy đầm đìa đầy cả chậu, mà ông vẫn cắt thịt nướng uống rượu, cười nói như không.
Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương. Quan Vũ được phong làm Tiền tướng quân và ban cho cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương giữ Giang Lăng, Sĩ Nhân giữ thành Công An, còn mình khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo, đem theo con trai trưởng là Quan Bình. Thục ký viết: Vũ ban đầu xuất quân vây Phàn thành, mộng thấy có đàn lợn cắn vào chân, mới nói nhỏ với Bình rằng: “Ta nay tuổi đã cao, như thế ắt nay đi chẳng thể trở về!”
Đại quân của Quan Vũ vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn (樊) thành. Tào Tháo nghe tin, sai Vu Cấm dẫn quân đi cứu Tương-Phàn.
Bàng Đức lúc trước dẫn quân bản bộ hợp binh cùng Tào Nhân đi dẹp loạn Hầu Âm (侯音), Vệ Khai (衛開) ở huyện Uyển (宛), rồi xuôi xuống Nam, đến Phàn (樊) thành giúp chống Quan Vũ.[29] Bàng Đức nói "Ta đã chịu quốc ân, về nghĩa phải lấy cái chết để báo đáp. Năm nay nếu ta không giết được Vũ, tất Vũ sẽ giết ta." Quan Vũ và Bàng Đức giao chiến, Vũ bị Đức bắn tên trúng vào trán.[29] Bàng Đức thường cưỡi ngựa trắng, quân của Vũ đều khiếp sợ Đức, gọi ông là Bạch mã tướng quân.[29] Tào Nhân sai Bàng Đức đóng quân cách phía bắc Phàn thành mười dặm.[29]
Tháng 8 năm 219, mùa thu, trời đổ mưa lớn hơn 10 ngày,[29] sông Hán Thủy dâng cao, tràn bờ gây ra lũ lụt. Nước sông mênh mông, dưới chân Phàn thành ngập sâu "năm sáu trượng".[29] Quân Tào đóng đồn ở phía bắc Phàn thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Quan Vũ dùng thủy quân Kinh Châu tấn công. Vu Cấm cùng chư tướng trèo lên chỗ cao, nước lũ bao quanh không còn chỗ trốn, đành đầu hàng.[30]
Bàng Đức cùng tướng sĩ trốn lũ trên đê, chống trả quyết liệt từ sáng đến trưa,[29] rồi cùng một tướng khác đi thuyền nhỏ định về trại Tào Nhân, nhưng thuyền bị lật.[29] Đức bị rơi mất cung tên, bám vào thuyền trôi theo dòng nước lũ, cuối cùng bị bắt.[29] Bàng Đức đứng thẳng không chịu quì;[29] Quan Vũ dụ hàng Đức, bị ông chửi mắng rằng:[29]
“ | Thằng ranh con, sao dám bảo ta hàng! Nguỵ vương có trăm vạn giáp binh, uy chấn thiên hạ. Lưu Bị nhà mày chỉ là kẻ tầm thường thôi, há có thể địch nổi sao! Ta thà làm con ma ở nước Nguỵ, chẳng thèm làm tướng của lũ nghịch tặc vậy.[29] | ” |
Quan Vũ sai người giết Bàng Đức.[29] 45 năm sau, con trai Bàng Đức để trả thù cho cha đã giết sạch gia tộc Quan Vũ.[34]
Điển Lược viết: Khi (Quan) Vũ vây Phàn thành, (Tôn) Quyền sai sứ đến xin xuất binh giúp đỡ, song Quyền chẳng vội vã tiến binh, chỉ phái quan chủ bạ đến báo cho Vũ biết. Vũ giận vì đợi lâu, lại bởi lúc ấy mới bắt được bọn Vu Cấm, bèn mắng rằng: “Tặc tử sao dám vậy, ví như lấy xong Phàn thành, ta chẳng thể diệt hắn ư!” Quyền nghe nói vậy, biết Vũ coi rẻ mình, mới vờ viết thư tạ lỗi, hứa sẽ xuất binh giúp Vũ.
Phàn thành rất nguy cấp, nhiều chỗ trong thành bị nước sông làm xói lở. Mãn Sủng động viên Tào Nhân giữ thành, vì nước lũ sẽ rút nhanh.[35] Tại thành Tương Dương, Lã Thường cũng cố sức cầm cự trước sức tấn công của Quan Vũ. Hai thành bị vây ngặt, hoàn toàn không liên lạc được với nhau. Trước tình thế đó, các tướng Tào khác gồm thứ sử Kinh châu[36] là Hồ Tu, thái thú Nam Dương là Trù Phương đều đầu hàng Quan Vũ.
Quan Vũ nhân đà thắng trận, dẫn quân tiến sâu vào Hiệp Hạ,[37] kích động các bộ tộc thiểu số phản Tào. Nhiều lực lượng chống Tào ở phía nam Hứa Xương nhận ấn hiệu đi theo Quan Vũ. Trung nguyên chấn động.
Tào Tháo rất lo lắng, toan tính dời đô - đưa Hán Hiến Đế khỏi Hứa Xương. Sau nghe lời Tư Mã Ý và Tưởng Tế phân tích lợi hại, Tào Tháo mới quyết định không thiên đô, sai Từ Hoảng mang quân đi cứu Phàn Thành.
Từ Hoảng nhận lệnh mang quân đến cứu Tào Nhân. Quân Tào lần này phần lớn là tân binh (quân tinh nhuệ theo Vu Cấm đã chết chìm hết), Tháo dặn dò Hoảng phải đợi tập hợp đủ binh lực, tránh tranh phong cùng quân Quan Vũ. Từ Hoảng đến Yển (偃) thành, giả vờ đào hào xung quanh để cắt đứt tiếp tế, quân Thục đốt đồn bỏ chạy, Yển thành bị Hoảng chiếm.
Quan Vũ đành dẫn quân giáp mặt Từ Hoảng, Từ Hoảng tự Công Minh, cũng là người quận Hà Đông, từ nhỏ Vũ và Hoảng đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt.[38] Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quí trọng nhau, lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nói chuyện thường ngày, không nhắc việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền lệnh:[39]
“ | Ai lấy được đầu Vân Trường, thưởng ngàn cân vàng.
Vũ lo sợ cuống cuồng hỏi Hoảng rằng: Đại huynh sao lại nói như vậy? Hoảng đáp: Ấy chỉ bởi việc nước mà thôi. |
” |
Quan Vũ cho quân đóng trại ở Vi Đầu (圍頭), lại lập thêm đồn ở Tứ Trủng (四冢). Từ Hoảng giương đông kích tây, phao tin đánh trại Vi Đầu của Vũ, nhưng kỳ thực lại đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua to, đồn Tứ Trủng sắp vỡ, Vũ phải đích thân dẫn năm nghìn quân ra đánh, bị Từ Hoảng đánh lui. Hoảng đuổi theo phá tan quân Thục, binh sĩ bị rơi xuống sông Hán Thủy chết rất nhiều, Phàn Thành được giải vây[40]
Theo các nhà nghiên cứu Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, thì lúc này thủy quân của Quan Vũ vẫn chiếm cứ Miến Thủy, Tương Dương vẫn tiếp tục bị bao vây. Quân của Từ Hoảng tuy phá được vòng vây ở Phàn Thành nhưng không có thủy quân, nên không thể ứng cứu cho Tương Dương. Nhưng khi nghe tin Giang Lăng thất thủ, Quan Vũ phải bỏ vòng vây, lập tức dẫn binh quay về Nam, trên đường nhiều lần sai người đi do thám tin tức.[41]
Tào Tháo không thừa thắng truy kích. Theo nhà nghiên cứu Dịch Trung Thiên, không phải vì nhân từ hay nghĩ tình cũ, mà chỉ muốn ngồi nhìn hai hổ đấu với nhau. Tào Tháo tin rằng Tôn Quyền đã mài dao từ lâu, tất sẽ không buông tay bỏ cuộc, và dự liệu đó là hoàn toàn chính xác.[42]
Về phía Đông Ngô, người chủ hòa với phe Lưu Bị là Lỗ Túc đã mất. Lã Mông lên thay, khuyên Tôn Quyền đánh chiếm Kinh Châu. Lúc mới nhậm chức, Mông gửi thư cho Quan Vũ, lời lẽ nhún nhường, khiến Vũ khinh nhờn. Sau đó Lã Mông lại giả xưng bệnh nặng, tiến cử Lục Tốn là người có tài nhưng chưa có tiếng kế vị. Tôn Quyền vờ phát hịch gọi Mông về, khiến Quan Vũ tưởng thật, lơ là phòng bị Đông Ngô, đã rút bớt quân Kinh châu điều đi đến Phàn Thành.[43]
Khi Quan Vũ mới được thêm mấy vạn hàng quân của Vu Cấm thì thiếu lương thực, nên cướp kho lương ở Tương Quan (湘關) của Đông Ngô. Tôn Quyền nghe chuyện, liền lệnh cho Lã Mông phát binh tập kích Quan Vũ.[44][45] Lã Mông đến Tầm Dương, giấu hết quân tinh nhuệ ở trong khoang thuyền, cho mặc áo trắng của lái buôn, chèo thuyền đi gấp ngày đêm đến đồn canh phòng mà Quan Vũ đặt ở bên sông, bắt trói hết quân ở đồn ấy nên Vũ vẫn không hay biết gì. Lã Mông tiếp tục kéo quân đến Nam Quận.[43]
Quan Vũ vốn hay yêu quý sĩ tốt nhưng lại coi thường các sĩ phu, vì vậy hai tướng giữ hậu phương là My Phương và Sĩ Nhân vẫn bất mãn với ông.[46] Khi Lã Mông dẫn quân bất thần kéo đến đánh, My Phương và Sĩ Nhân theo lời thư dụ của Ngu Phiên, không giao chiến đã đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền.
Trước khi Quan Vũ tiến đánh Tương - Phàn, ông vẫn để lại rất nhiều lính ở Giang Lăng chưa kể lực lượng từ các cứ điểm khác của Kinh Châu luôn sẵn sàng chi viện. Chỉ cần lực lượng trấn giữ Giang Lăng cố thủ, Quan Vũ có thể kịp về ứng cứu. Tuy tính toán cẩn thận đến vậy, Quan Vũ lại không lường được việc My Phương và Sĩ Nhân đầu hàng quân Ngô.[cần dẫn nguồn]
Giang Lăng và Công An mất vào tay Đông Ngô, vợ con các tướng sĩ của Quan Vũ bị bắt sống cả. Lã Mông hạ lệnh không được lấn ép người nhà tướng sĩ Kinh Châu, không được cướp đoạt, lại sớm tối sai người thân cận đi chăm sóc người già cả, thăm hỏi những nhà không đầy đủ, cấp thuốc, ban cơm áo cho người bệnh tật, đói rét. Tin tức đó truyền đến quan quân của Quan Vũ nên họ không còn lòng dạ chiến đấu nữa, dần tản mát hết.[43]
Quan Vũ vốn có thể chạy về phía tây bắc (gần Tây Xuyên) đến các quận Thượng Dung và Phòng Lăng, nhưng vì quan hệ với các tướng trấn giữ ở đó là Mạnh Đạt và Lưu Phong không tốt[38] nên cùng đường phải chạy về phía nam ra Mạch Thành (麥城).[47] Đến nơi, ông lại biết tin Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô. Trong khi Quan Vũ chờ đợi viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh không đến cứu.
Sau khi bị Từ Hoảng đánh bại[48] và bị Lã Mông lấy mất Kinh Châu, Quan Vũ đã cùng đường, nói theo Lưu Bị truyện của Trương Tác Diệu là “đã mất địa bàn, lại mất tướng sĩ, mất cả lòng dân”, chỉ còn đường chết.[49]
Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi vòng vây của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị).
Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư[50] thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường phục kích. Chu Nhiên để sổng Quan Vũ, nhưng bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt sống được Vũ cùng Quan Bình và Triệu Lũy.[51] Cả Quan Vũ và Quan Bình cùng bị hành quyết tại chỗ.[52]
Các sử gia đánh giá rằng: Lưu Bị và Quan Vũ có nhiều điều không phải với Tôn Quyền, nhưng việc Tôn Quyền ngầm đầu hàng Tào Tháo từng là kẻ thù chung để đánh lén sau lưng, giết chết Quan Vũ cũng là quá đáng.[53]
Lúc Quan Vũ bị hành quyết là năm 220, không rõ bao nhiêu tuổi. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa ghi ông thọ 58 tuổi, tức là sinh năm khoảng 162, nhưng các nhà sử học không xác nhận thông tin này là chính xác.[54]
Về việc Quan Vũ và Quan Bình bị giết chính xác ở đâu, Tam quốc chí ghi chép không rõ ràng.
Lâm Thư, Chương Hương, Giáp Trạch là các địa danh ở gần nhau.
Dịch Trung Thiên đưa ra lý giải là: Phan Chương và Chu Nhiên nhận lệnh đi ngăn đường phục kích Quan Vũ. Phan Chương lấy Lâm Thư làm quân doanh, sau đó cho quân đi mai phục ở Giáp Thạch. Giáp Thạch ở về phía tây bắc Chương Hương, sau khi bộ tướng là Mã Trung bắt được Quan Vũ ở Chương Hương đã áp giải Vũ về quân doanh ở Lâm Thư. Lúc này, lệnh của Tôn Quyền cũng vừa tới: "giết Quan Vũ", và Phan Chương đã hành quyết Quan Vũ ở Lâm Thư.[55]
Tôn Quyền sai người mang đầu Quan Vũ đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu ông đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Ngô lịch viết: Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào công, Tào công lấy lễ chư hầu mà an táng cho Vũ. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả tình tiết rằng Tào Tháo cho người dùng gỗ quý tạc thành thân người rồi chắp đầu lâu của Vũ vào an táng.
Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ.[56] Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ nghĩ rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền.[57]
Quan Vũ ra quân tháng 7 năm 219, trong vòng chưa được nửa năm (đến tháng 12 Âm Lịch) thì thất bại tan nát, không những cùng con trai mất mạng, để mất Kinh Châu, mà còn khiến phe Thục Hán tổn thất lực lượng nặng nề, chiến lược của Gia Cát Lượng vạch ra ở Long Trung không còn khả thi. Sau này, Trương Phi vì nóng vội đi trả thù, đánh đập tướng sĩ, bị Phạm Cương và Trương Đạt ám sát. Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ mà không suy tính lẽ thiệt hơn, mang quân đi đánh Tôn Quyền (năm 221), kết quả bị Lục Tốn đánh thua to, rồi bị bệnh mất. Rất nhiều quan tướng của Thục Hán cũng chết trận ở Ngô, như Mã Lương, Trương Nam, Phùng Tập, cha của Phó Thiêm là Phó Đồng...
Đến năm 260, Hậu chủ Lưu Thiện truy phong thụy hiệu cho Quan Vũ là Tráng Mậu Hầu (壯繆侯). Vũ là 1 trong số 12 công thần Thục Hán được truy phong thụy hiệu (cùng với Pháp Chính, Gia Cát Lượng, Tưởng Uyển, Phí Vĩ, Trần Tự, Hạ Hầu Bá, Trương Phi, Mã Siêu, Bàng Thống, Hoàng Trung, Triệu Vân).
Xác chết của Quan Vũ đầu một nơi, thân một nẻo, nên dân gian đặt ra câu nói: "Đầu ở Lạc Dương, thân nằm Tương Dương, hồn về cố hương (Sơn Tây)".[58] Phần đầu của Vũ được Tôn Quyền dâng cho Tào Tháo, Tháo cho chôn tại Lạc Dương. Phần thân thì táng ven sông nơi Quan Vũ và con trai bị chặt đầu, nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc.
Hai ngôi mộ được cho là ban đầu rất đơn sơ. Đến thời nhà Tùy và sau này là nhà Đường, mộ được tu sửa, trở nên bề thế, tráng lệ hơn. Đến thời nhà Minh, hai ngôi mộ Quan Vũ đều trở thành "Quan lăng" với quy mô khổng lồ, vô cùng uy nghi.
Gần đây, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã khai quật mộ Quan Vũ, phát hiện mỗi ngôi mộ này đều có một hài cốt phụ nữ được chôn cùng, đến nay không thể xác định là ai, nhưng gây ra nhiều đồn đoán vô căn cứ như "có thể đó là Điêu Thuyền" (một nhân vật hư cấu).[cần dẫn nguồn]
Theo giáo sư tiến sĩ người Hà Lan Barend Ter Haar, một nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc của Đại học Hamburg và tác giả sách Guan Yu: The Religious Afterlife of a Failed Hero (ISBN 9780198803645), "sự nghiệp tâm linh kiếp sau" của Quan Vũ bắt đầu với giai đoạn là một vong hồn[59] được dân địa phương lập miếu thờ để cầu an, qua mấy trăm năm trắc trở đến thời nhà Đường thì được "phong thánh" trở thành "Quan Công", được đưa vào miếu thờ của Phật giáo. Đến thời nhà Tống, "Quan Công" được đưa vào nghi lễ cúng bái trừ tà của Đạo Giáo, rồi đến thời nhà Minh, nhà Thanh, được phong làm "Quan Thánh", "Quan Đế".
Sau khi Thục Hán diệt vong, sự sùng bái Quan Vũ ở đất Thục (Tứ Xuyên) dần biến mất có lẽ do ông quanh năm chinh chiến ở bên ngoài. Nơi sùng bái Quan Vũ nhất là vùng Kinh Châu, nơi ông đóng quân khá lâu, đặc biệt là ở Lâm Thư nơi ông bị giết.[60]
Bắt nguồn từ tâm lý mê tín của người xưa, dần dần xuất hiện những đồn đại về hồn ma Quan Vũ "hiển linh" ở Tương Dương nơi ông bị chặt đầu. Dân chúng Tương Dương lo sợ oan hồn ông báo thù nên xây một ngôi mộ, bắt đầu tế lễ Vũ như một "cô hồn dã quỷ", cầu mong đừng báo oán. Lúc này, Quan Vũ chưa trở thành "Quan Công", nhưng đây được cho là bước đầu để mở đường cho ông bước lên bệ thần thánh. Do tâm lý khiếp sợ hồn ma Quan Vũ báo thù, nên thời gian đầu các miếu thờ Quan Vũ có kiến trúc âm u, tượng ông được tạc với hình dạng hung dữ, đáng sợ. Việc thờ cúng Quan Vũ khi đó cũng chỉ mang tính khu vực (Tương Dương), không xuất hiện ở các địa phương khác.[61]
Hơn 500 năm sau khi Quan Vũ chết, năm 731, Đường Minh Hoàng cho xây Võ miếu đầu tiên gọi là Thái Công Thượng phụ miếu, thờ chủ thần là Khương Thái Công (Khương Thượng, tức Lã Vọng) cùng 10 danh tướng các thời, chia làm 2 bên. Bên trái gồm: Bạch Khởi, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Lý Tĩnh, Lý Tích. Bên phải gồm: Trương Lương, Điền Nhương Thư, Tôn Vũ, Ngô Khởi, Nhạc Nghị. "Thập triết" không có Quan Vũ, chứng tỏ tâm lý tôn sùng "Quan Công" lúc này vẫn chưa lớn mạnh.
Đến năm 782, Đường Đức Tông tăng số tướng trong Võ miếu thêm 64 người. Trong số mới được thêm vào có Tôn Tẫn, Liêm Pha, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Quan Vũ, Trương Phi, Chu Du, Đặng Ngải... Qua đó cho thấy địa vị của Quan Vũ lúc này cũng chỉ ngang các tướng thời Tam Quốc khác như Trương Phi, Chu Du, Đặng Ngải.
Đến thời Ngũ đại Thập quốc, Hậu Thục (934-965) thành lập tại Thành Đô, chỉ truy phong Gia Cát Lượng và Trương Phi làm vương, Quan Vũ vẫn chỉ tước hầu, không được nhắc gì đến, chứng tỏ vẫn chưa được xem trọng.
Đầu thời Bắc Tống (960-1127), hoàng đế Tống Thái Tổ ra lệnh đưa tượng Quan Vũ ra khỏi Võ miếu vì cho rằng Vũ từng đầu hàng địch, không xứng đáng được thờ.[61] Tục tư trị thông giám chép: khi tới Võ miếu, Triệu Khuông Dận chỉ tượng Quan Vũ mà mắng rằng "Sợ chết đầu hàng, quá ư bất vũ, sao xứng được thờ ở đây?"; rồi sai người dời tượng Vũ đi. Nhưng mấy năm sau, Tống Thái Tổ bàn việc đưa thêm 23 tướng vào Võ miếu, tượng Quan Vũ lại được đưa vào.
Năm 1123, Tống Huy Tông lại tăng số lượng các tướng thờ ở Võ miếu lên thành 72 cho tương đương với "Thất thập nhị hiền" bên Văn miếu. Tượng Quan Vũ được đặt phía điện ngoài, thuộc 33 vị bên tây, các tướng cùng thời Tam Quốc gồm Hoàng Phủ Tung, Đặng Ngải, Trương Phi, Lữ Mông, Lục Kháng, Đỗ Dự, Trương Liêu, Quan Vũ, Chu Du, Lục Tốn, Dương Hựu, Vương Tuấn...
Cũng vào thời Tống Huy Tông, Quan Vũ lại được thụy hiệu phong vương là Nghĩa Dũng Võ An Vương (義勇武安王).
Thời Nam Tống, góc nhìn lịch sử thời Tam quốc "Ngụy là triều đại chính thống" được đảo ngược thành "Ngụy là giặc, Thục Hán là chính thống", khiến cho vị thế của Quan Vũ – phe Lưu Bị – được nâng cao rõ rệt, và màu sắc thần thánh hóa đối với ông cũng đậm nét hơn.
Đến thời nhà Nguyên, người Mông Cổ thống trị Trung Hoa, triều đình không muốn dân chúng tôn thờ những danh tướng chống ngoại tộc như Nhạc Phi, nên đề cao Quan Vũ, một người trung thành với chủ trong cuộc nội chiến Tam Quốc. Cuốn Nguyên sử – Tế tự ký ghi rằng lễ phật trong cung đình nhà Nguyên luôn có "Quan Vũ thần kiệu", nghĩa là rước kiệu thần trong đó có tượng Quan Vũ.
Đến thời nhà Minh, Quan Vũ được cho là đã "hiển thánh" giúp đỡ Chu Nguyên Chương đánh bại Trần Hữu Lượng trong trận hồ Bà Dương, nên Minh Thái Tổ cho xây dựng "Quan Công miếu" ở Nam Kinh, ra lệnh người dân phải cúng bái.
Năm 1614, Minh Thần Tông phong Quan Vũ làm "Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Chấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân" (三界伏魔大帝神威遠鎮天尊關聖帝君). Quan Vũ chính thức trở thành "Quan Thánh", "Quan Đế". Việc tôn sùng Quan Vũ đã thịnh hành trong cung đình nhà Minh, có ghi chép rằng "trong cung dựng 2 tượng Quan đế, một lớn một nhỏ".
Tới thời nhà Thanh, Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích là người hâm mộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa,[6] phao tin rằng ông "được thần Quan Vũ phù hộ" nhằm tạo sự huyền bí cho bản thân trên chiến trường. Quân sĩ Mãn Thanh cũng đem theo hình Quan Vũ trong mình để được bảo vệ (mặc dù họ đang đánh nhà Minh của người Hán, và Quan Vũ là người Hán).
Để khuyến khích lòng trung thành với vua chúa, và một phần cũng để lấy lòng người Hán, các Hoàng Đế nhà Thanh sau đó liên tục phong tước cho Quan Vũ, tên thụy ngày càng dài ra (lên đến 24, 26 chữ như Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Thánh Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế, nên phải gọi tắt là "Quan Thánh").
Càn Long cho thêu dệt nên câu chuyện Quan Vũ "hiển linh" đi sau kiệu hộ giá nhà vua: Càn Long ngồi kiệu vẫn hay nghe tiếng dép lẹp kẹp đi theo sau, quay lại thì không thấy ai, Vua hỏi "ai theo hộ giá trẫm thế?" thì nghe trả lời "nhị đệ Quan Vân Trường", Vua phong làm "Tài Thần" (Quan Vũ là người Hán nhưng lại bảo vệ Hoàng Đế Mãn Thanh, khiến các hội Phản Thanh phục Minh mất đi khí thế).[6]
Cuối cùng, vua Hàm Phong phong cho Quan Vũ là "Phu Tử", trở thành "Võ thánh" sánh ngang với Văn thánh Khổng Phu Tử. Từ một viên tướng có thành tích không quá nổi bật, hai lần bị bắt rồi bị giết, hơn một ngàn năm sau, nhờ các câu chuyện dân gian, tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, và được các vua chúa triều nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh sử dụng làm hình mẫu tuyên truyền lòng trung thành trong dân chúng, cuối cùng Quan Vũ trở thành "Quan Thánh Đế Quân", đánh bật cả Khương Tử Nha và 10 vị danh tướng thời trước ra khỏi Võ miếu (từ thời nhà Thanh chỉ còn thờ mỗi Quan Vũ).
Sau khi nhà Thanh và chế độ phong kiến sụp đổ, hình tượng "Quan Công", "Quan Thánh" tiếp tục được dân gian sùng bái, từ thợ cắt tóc, thương nhân, đến Hội Tam Hoàng.[60] Theo thống kê, ngày nay Quan Công là người có số lượng miếu thờ nhiều nhất ở Trung Quốc. Tuy nhiên, theo Dịch Trung Thiên, tác giả sách Phẩm Tam Quốc thì người thời Tam Quốc có ba loại hình tượng: hình tượng lịch sử (trong chính sử), hình tượng văn học (trong tiểu thuyết) và hình tượng dân gian (trong giai thoại);[62] và theo nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc Barend Ter Haar thì hình tượng Quan Công được thờ cúng ở đây là "hình tượng trong văn học và dân gian", không hoàn toàn giống với Quan Vũ trong lịch sử.[63]
Quan Vũ có ít nhất là 3 người con: Quan Bình, Quan Hưng, và một con gái. Con cả Quan Bình theo ông đi chiến trận, bị Đông Ngô bắt giết cùng ông (năm 219).[64] Con thứ Quan Hưng lớn lên ở Ích Châu, được cất nhắc làm Thị trung và Trung giám quân, cũng chỉ làm quan được một thời gian rồi qua đời sớm.[65]
Quan Vũ còn có ít nhất là một người con gái, vì Tôn Quyền từng định hỏi cho con trai mình để kết thông gia nhưng Vũ từ chối, sỉ nhục sứ giả, gây nên bất hòa sau này. Thời phong kiến phụ nữ thường ít khi được ghi lại tên tuổi, nên chỉ được biết đến là Quan Thị. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa viết rằng Quan Vũ gọi con gái mình là "Hổ Nữ", còn con trai Tôn Quyền là "loài chó".
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, nhân vật Quan Vũ còn có người con trai thứ ba tên là Quan Sách. Nhân vật hư cấu này từng tham gia Nam chinh chống Mạnh Hoạch cùng với Gia Cát Lượng.
Đến đời cháu, con trưởng của Quan Hưng là Quan Thống làm tới chức Hổ bôn trung lang tướng, cũng mất sớm không có con trai. Người con thứ của Quan Hưng là Quan Di, sau khi Quan Thống mất, được tập tước Hán Thọ đình hầu.
Khi Thục Hán diệt vong (264), con Bàng Đức là Bàng Hội theo Chung Hội - Đặng Ngải vào Tây Xuyên, đã tìm hết nhà họ Quan ở Thành Đô tàn sát để trả thù cho cha, dòng họ Quan Vũ từ đó bị diệt vong.[65]
Tam quốc chí ghi chép: Con nối dõi của Vũ là Hưng. Hưng tên tự là An Quốc, lúc còn ít tuổi được làm lệnh ở huyện Vấn, được Thừa tướng Gia Cát Lượng quý trọng khác thường. Sau làm quan Thị trung, Trung giám quân. Được mấy năm thì chết. Con Hưng là Thống nối tự, lấy công chúa (con Hậu chúa), làm quan đến Hổ bôn Trung lang tướng. Khi chết, không có con nối dõi, mới lấy con thứ của Hưng là Di kế tục tước. Thục ký viết: Con Bàng Đức là Hội, theo Chung-Đặng phạt Thục, Thục bị diệt, đã cho giết sạch gia tộc Quan Vũ.
Theo giáo sư tiến sĩ Barend Ter Haar, một nhà Hán Học thuộc Đại học Hamburg và tác giả sách Guan Yu: The Religious Afterlife of a Failed Hero, văn hoá[66] tôn sùng Quan Vũ bắt đầu từ những người dân không cùng huyết thống với ông. Nhiều thế kỷ sau bắt đầu có những người họ Quan tuyên bố họ là con cháu Quan Vũ, và đến thời nhà Minh (trùng với thời điểm Quan Vũ được phong vương, phong thánh, phong đế) thì bắt đầu có tập tục thờ cúng Quan Vũ như là tổ tiên dòng họ.
Hiện nay có bộ sách "Quan thị gia phổ" gồm 12 quyển, trải suốt gần 1.900 năm, được tu bổ vào đời Càn Long nhà Thanh, chỉnh lý lần cuối vào năm 1932. Theo bộ gia phả này ghi chép thì khi nhà Thục Hán sụp đổ, một số con cháu của Quan Di đã kịp bỏ trốn và đổi thành họ Môn để tránh họa, đến đời Tây Tấn mới lấy lại họ Quan. Nhánh hậu duệ này của Quan Vũ được cho là có nhiều người tài giỏi nổi tiếng, như: Quan Lang - đại thần đời Bắc Ngụy, Quan Khang Chi - danh nho đời Nam triều, Quan Phiên - tể tướng đời Đường...
Đến năm 2010, ông Quan Trung Kim, theo "Quan thị gia phổ" ghi chép thì là hậu duệ đời thứ 67 của Quan Vũ, trú tại thị trấn Hoàng Sơn Đầu (huyện Công An, tỉnh Hồ Bắc) là người đang giữ bộ gia phả này. Ông Quan Anh Tài - cháu đời thứ 72 - là cự phú công thương Đông Nam Á và là Chủ tịch của Tổng hội Long Cương quốc tế (thành viên gồm những người được cho là hậu duệ của Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi và Triệu Vân)
Sử gia Trần Thọ, tác giả bộ chính sử Tam quốc chí có đánh giá về Quan Vũ được đời sau ghi nhận là công bằng:
Trong Tam quốc chí, chú giải của Bùi Tùng Chi ghi rằng: "Xưa, Trương Phi hùng tráng uy mãnh, chẳng kém gì Quan Vũ, mưu thần nước Nguỵ là Trình Dục khen Quan Vũ và Trương Phi là vạn người khó địch. Vũ khéo đối xử với sĩ tốt mà kiêu ngạo với sỹ đại phu, Phi yêu kính người quân tử mà không thương xót kẻ tiểu nhân."
Quan Vũ được đánh giá là vị tướng võ nghệ xuất chúng, dũng cảm phi thường, uy tín đứng đầu toàn quân. Chiến tích đột kích, chém Nhan Lương giữa hàng vạn quân cho thấy Quan Vũ là người có võ nghệ rất cao cường. Dương Hí bình luận rằng:
Về tính cách, Quan Vũ trọng điều nhân nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tôi tuyệt đối trung thành. Trong trận Từ Châu, Tào Tháo bắt được Quan Vũ, Nhưng vì rất quý trọng khí phách và tài năng của Quan Vũ nên Tào Tháo không đối xử với ông như là tù binh mà coi là bậc thượng khách, ban lễ vật và chức tước rất trọng hậu, mong thu nạp được ông. Nhưng dù Tào Tháo hậu đãi bao nhiêu lần cũng vẫn không thuyết phục được ông từ bỏ Lưu Bị, dù Lưu Bị khi đó đang phải phiêu dạt khắp nơi và sự nghiệp rất mờ mịt. Tào Tháo tuy thất vọng vì không thu nạp được ông, nhưng cũng phải khen ông là “Thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ thiên hạ vậy”. Trong thiên hạ khi ấy, rất hiếm có võ tướng nào được Tào Tháo ca ngợi như vậy.
Ông theo phò tá Lưu Bị suốt 30 năm, phải trải qua gian lao khó nhọc, nhiều phen suýt trận vong nhưng ông vẫn một lòng trung thành không đổi. Ông cùng với Triệu Vân, Trương Phi là những vị tướng theo Lưu Bị sớm nhất và trung thành nhất với Lưu Bị.
Lịch sử Trung Hoa từng ghi nhận không ít trường hợp mộ hoàng gia, quan lại bị kẻ trộm mộ phá hoại, chỉ có rất ít mộ huyệt dù có địa danh cụ thể nhưng vẫn không bị xâm phạm và trong đó có mộ Quan Vũ. Suốt 1.800 năm, hai ngôi mộ của Quan Vũ vẫn không kẻ nào dám động tới, bởi sự tôn thờ mà hậu thế dành cho ông[67].
Ngày nay, Quan Công là nhân vật có nhiều miếu thờ bậc nhất tại Trung Quốc. Cả cảnh sát và xã hội đen Hồng Kông, bao gồm Hội Tam Hoàng, đều thờ Quan Công. Cảnh sát coi Quan Công là vị thánh biểu tượng cho lòng trung thành, sự công minh, nhân từ, dũng cảm và đáng tin cậy, tinh thần liêm khiết không màng vinh hoa phú quý. Xã hội đen Hong Kong thì thờ Quan Công vì cho rằng ông là biểu tượng của tình huynh đệ, một lòng trung thành với chủ và khí phách hiên ngang đối mặt với hiểm nguy, dù chết cũng không sờn lòng.
Theo Tục tư trị thông giám, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chê Quan Vũ làm tướng mà chịu bị địch bắt, nên khi đi thăm Võ miếu đã chỉ mặt tượng Quan Vũ mắng rằng: "Sợ chết đầu hàng, quá ư bất vũ! Sao đáng được thờ ở đây?", rồi sai đem tượng của Vũ ra khỏi Võ miếu. Tuy nhiên sau này khi xét duyệt thêm danh tướng được thờ trong miếu, Tống Thái Tổ lại cho đưa tượng của Quan Vũ vào lại Võ miếu.
Các nhà sử học đánh giá Quan Vũ là người kiêu ngạo, không chịu ở dưới người khác.[68] Năm 214, nghe tin Mã Siêu đến hàng Lưu Bị ở Tây Xuyên, Quan Vũ đang ở Kinh châu bèn viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi: "Nhân phẩm, tài năng của Mã Siêu có thể so sánh với ai?" Gia Cát Lượng phải lựa lời viết thư lấy lòng Quan Vũ: "Mã Siêu chỉ có thể sánh ngang với Trương Phi, không thể siêu phàm tuyệt luân như ngài!" Ông đọc thư rất đắc ý và mang thư khoe với nhiều người.[68]
Năm 219, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương, phong ông làm Tiền tướng quân và lão tướng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân.[69] Quan Vũ thấy mình ở ngang hàng với Hoàng Trung thì không bằng lòng, không chịu nhận ấn tín. Phí Vĩ phải lựa lời khuyên ông nên vì nghiệp lớn của Lưu Bị, ông mới gác lại chuyện này và thụ phong.
Khi trấn giữ Kinh châu, Quan Vũ đã không giữ nổi đất và để quân Ngô chiếm mất 3 quận. Tôn Quyền trên danh nghĩa "nhận" 3 quận do Quan Vũ bàn giao nhưng trên thực tế đã chiếm được trong tay; họ Tôn lại muốn giao hảo, thế nhưng Quan Vũ lại khinh miệt, mắng nhiếc Quyền. Việc năm lần bảy lượt xúc phạm Tôn Quyền của Quan Vũ là một sai lầm, khiến Tôn Quyền để Lã Mông đánh úp khi Quan Vũ đang bận viễn chinh, dẫn đến cái chết sau này của ông.[53] Trương Tác Diệu trong Lưu Bị truyện chê Quan Vũ là người "hữu dũng vô mưu", tự cầm quân một mình thì dẫn đến thất bại.[70]
Theo Dịch Trung Thiên, từ lúc theo Lưu Bị chinh chiến, lúc nào Quan Vũ cũng được cho phụ trách một cánh quân riêng, cho thấy hẳn ông phải có "tài". Quan Vũ là người phương Bắc, vừa đến miền Nam (Kinh Châu) đã nắm được cách chỉ huy thủy quân, rõ ràng là có "nghề". Tuy nhiên, cũng Dịch Trung Thiên cho rằng Quan Vũ có năng lực, có hiểu biết về một mặt nào đó, nhưng "không đủ đầu óc chính trị", "không có nhãn quan chiến lược", lúc trước không giữ nổi một thành nhỏ (như Hạ Phì), về sau càng không đủ sức giữ nổi mảnh đất chiến lược như Kinh châu.[5]
Nhà văn La Quán Trung lấy nhà Hán làm chính thống và ủng hộ Lưu Bị, do đó Quan Vũ - người trợ giúp đắc lực của Lưu Bị - được mô tả là nhân vật chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng. Tác giả đã thêu dệt ra rất nhiều chiến công cho nhân vật Quan Vũ, còn đa số thất bại được ghi trong sử sách thì lược bỏ.
Tình huynh đệ giữa nhân vật này với các nhân vật Lưu Bị và Trương Phi được La Quán Trung ca ngợi. Xuyên suốt trong Tam quốc, cụm từ "kết nghĩa vườn đào" là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn, hoạn nạn mà mờ phai. Ngoài ra nhân vật Quan Vũ còn được miêu tả là một người trọng tình nghĩa, trong trận Trường Bản có nhiều người nói Triệu Vân bỏ sang hàng Tào nhưng ông một mực không tin - Thực ra là Triệu Vân phải phá vòng vây cứu ấu chúa. Ông còn sử dụng lòng nhân từ của mình để thu phục Hoàng Trung, một lão tướng sức địch muôn người.
Vân Trường không tuân theo sách lược của Khổng Minh là "Bắc cự Tào Tháo, Đông hòa Tôn Quyền". Tuy Vân Trường nói: "Tôi xin ghi tạc lời Quân sư chỉ bảo", nhưng ông không thực hiện sách lược đó.
Sau đó, Tôn Quyền khiến Gia Cát Cẩn đến Kinh Châu, nói với Vân Trường: "Tôi đến có ý kết giao hai nhà. Chúa tôi có con trai thông minh, nghe ngài có con gái tuyệt sắc, nên muốn cầu thân. Nếu ưng thuận, chúng ta sẽ hiệp nhau đánh Tào."
Nhưng Vân Trường nổi giận nói: "Con gái ta ví như loài hổ, há lại gả cho loài khuyển?"
Có lẽ đó là bước ngoặt dẫn đến cái chết của Vân Trường do Đông Ngô gây ra.
Những nhà nghiên cứu Tam Quốc diễn nghĩa đã tổng kết: trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhân vật Quan Công lập nhiều công trận, trước sau chém được 17 viên tướng ngoài mặt trận. Tuy nhiên, theo chính sử thì trừ việc chém Nhan Lương ra, những chiến tích còn lại là hư cấu:
Ngoài ra, ông còn ra lệnh hành quyết Bàng Đức sau khi viên tướng này bị bắt sống ở Khoái Khẩu.
Những người trợ thủ đắc lực nhất cho ông ngoài mặt trận trong nhiều năm là con nuôi Quan Bình (thật ra là con ruột) và Chu Thương (nhân vật hư cấu).
Trong nhiều năm chinh chiến, nhân vật Quan Vũ gắn bó với vũ khí là thanh long đao và ngựa chiến là ngựa xích thố.
Thanh long đao gọi là Thanh long yển nguyệt (yển nguyệt là trăng lưỡi liềm) do nhân vật này đặt rèn khi chuẩn bị đánh quân Khăn Vàng từ hồi một trong tiểu thuyết. Tương truyền thanh long đao của Quan Vũ nặng 82 cân (khoảng 49 kg ngày nay). Thanh long đao thật ra là hư cấu, loại vũ khí này mãi đến thời Đường, Tống mới bắt đầu xuất hiện. Sử không ghi Vũ dùng loại vũ khí gì. Cuốn sách cổ xưa nhất nói về vũ khí của Quan Vũ là Cổ kim đao kiếm lục (viết vào thế kỷ thứ 5) ghi rằng Quan Vũ lấy sắt từ núi Võ Đô rèn nên 2 thanh kiếm. Những ghi chép trong Tam quốc chí về sự kiện Vũ giết Nhan Lương chỉ ghi rằng Vũ "đâm" chết Lương, sau đó mới chặt lấy đầu (không rõ ông dùng vũ khí gì để đâm).
Con ngựa chiến Xích thố nổi tiếng của nhân vật Quan Vũ vốn là ngựa của Đổng Trác. Trác mang tặng Lã Bố để mua chuộc Bố phản Đinh Nguyên về theo mình. Lã Bố bị giết, ngựa về chuồng của Tào Tháo. Tào Tháo muốn lấy lòng ông bèn tặng ngựa xích thố cho ông. Ngựa quý một ngày có thể đi ngàn dặm, sau này theo Quan Vũ qua 5 ải chém 6 tướng (nhân vật hư cấu) và lập nhiều chiến tích hư cấu khác. Sau khi Quan Vũ bị chặt đầu, ngựa Xích Thố bỏ ăn rồi chết. (Ngựa xích thố của Lã Bố là có thật, nhưng việc Tào Tháo tặng nó cho Quan Vũ là hoàn toàn hư cấu).
Đề cao uy linh dũng khí của nhân vật Quan Công, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiển linh sau khi chết: vật chết Lã Mông trong dinh Tôn Quyền; thủ cấp trợn mắt mở mồm khiến Tào Tháo bệnh nặng rồi qua đời; giúp con là Quan Hưng giết được Phan Chương để trả thù trận Mạch Thành. (Thực tế Phan Chương đến năm 234 mới mất, còn Quan Hưng chết yểu từ nhỏ.)
Ngoài ra, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiện lên đòi trả mạng chết oan khi gặp lại sư Phổ Tĩnh là người đồng hương. Sư Phổ Tĩnh (nhân vật hư cấu) lựa lời khuyên giải, ông mới ra đi.
Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.
Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Tây Sở bá vương Hạng Vũ đầu thai làm Quan Vũ; Hạng Bá và Ung Sĩ từng phản Hạng Vũ phải đầu thai làm Văn Sú và Nhan Lương để Quan Vũ sát hại trong trận Bạch Mã - Diên Tân; các viên tướng tranh giành xé xác Hạng Vũ để lĩnh tước hầu của Lưu Bang đầu thai làm các tướng giữ cửa 5 ải và bị Quan Vũ giết chết trên đường tìm Lưu Bị.
Thủy hử là tác phẩm văn học của Thi Nại Am, kể chuyện 108 anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa "Thay Trời Hành Đạo". Trong 108 anh hùng Lương Sơn, có 2 nhân vật được xây dựng trên hình mẫu của Quan Vũ:
Hình ảnh Quan Vũ được chuyển thể lên màn ảnh thông qua các bộ phim truyền hình và điện ảnh, tính đến nay hình ảnh Quan Vũ đã được tái hiện qua nhiều diễn viên khác nhau ở các bộ phim khác nhau:
Quan Vũ được thờ phụng ở nhiều nơi, tôn lên nhiều danh hiệu cao quý. Ông là nhân vật được phong tặng nhiều danh hiệu nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Khi còn sống, lúc phục vụ Tào Tháo ông được Hán Hiến Đế phong "Hán Thọ Đình Hầu (漢壽亭侯)" năm 189. Mặc dù là người anh em kết nghĩa với Lưu Bị, song ông không được phong tước trong thời gian Lưu Bị trị vì nhà Thục Hán.
38 năm sau khi ông mất, Thục Hán Hậu Chủ Lưu Thiện truy tặng ông tước "Tráng Mậu hầu (壯繆侯) năm 258, "Nghĩa Dũng Tráng Mậu Hầu (義勇壯繆侯) năm 263.
Thời nhà Tống, Tống Huy Tông phong ông là"Trung Huệ Công (忠惠公)" năm 1102; "Sùng Ninh Chí Đạo Chân Quân (崇寧至道真君)" năm 1104, "Vũ An Vương (武安王) năm 1107,"Chiêu Liệt Vũ An Vương (昭烈武安王)" năm 1107,"Nghĩa Dũng Vũ An Vương (義勇武安王)" năm 1123,; Tống Cao Tông phong ông làm "Tráng Mậu Nghĩa Dũng Vũ An vương (壯繆義勇武安王)" năm 1128;Tống Hiếu Tông phong ông làm "Tráng Mậu Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương (壯繆義勇武安英濟王)" năm 1187.Đến thời nhà Nguyên, Nguyên Văn Tông phong ông làm "Hiển Linh Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王)" năm 1328; " Tề Thiên Hộ Quốc Đại tướng Quân, Kiểm Giáo Thượng Thư, Thủ Quản Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Kiêm Sơn Đông, Hà Bắc Tứ Môn Quan Chiêu Thảo Sứ,Kiêm Đê Điều Chư Cung Thần, Vô Phân Đại Xứ Kiểm Hiệu Quan, Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Chính Sự, Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, Giá Tiền Đô Thống Quân, Vô Nịnh Hầu, Tráng Mục Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương, Hộ Quốc Sùng Ninh Chân Quân (齊天護國大將軍、檢校尚書、守管淮南節度使,兼山東、河北四門關招討使,兼提調諸宮神、無分地處檢校官、中書門下平章政事、開府儀同三司、駕前都統軍、無佞侯、壯穆義勇武安英濟王、護國崇寧真君)" năm 1331. Đến thời nhà Minh, Minh Thần Tông tôn ông làm " Hiệp Thiên Hộ Quốc Trung Nghĩa Đại Đế (協天護國忠義大帝) năm 1578, rồi tôn thành"Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Chấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎮天尊關聖帝君)" năm 1613; Minh Tư Tông tôn ông làm "Chân Nguyên Hiển Ứng Chiêu Minh Dực Hán Thiên Tôn(真元顯應昭明翼漢天尊)" năm 1630; vua nhà Minh coi ông là vị thần hộ quốc[71]
Đời Nhà Thanh, vua Thuận Trị tôn ông là "Trung Nghĩa Thần Vũ Quan Thánh Đại Đế (忠義神武關聖大帝)" năm 1652; vua Ung Chính truy phong cho ông cố ông làm "Quang Chiêu Công (光昭公), ông nội ông làm "Dụ Xương Công(裕昌公)", cha ông làm "Thành Trung Công(成忠公)" năm 1725 và lệnh cho toàn quốc lập Võ miếu thờ ông, sử dụng lễ nghi dành cho Khổng Tử để cúng tế ông, bắt đầu cho sự thờ cúng quốc gia với Quan Công. Vua Càn Long tôn ông làm "Sơn Tây Quan Phu Tử(山西關夫子)" năm 1736, trở thành nhân vật thứ hai trong lịch sử Trung Quốc nhận danh hiệu Phu Tử, chính thức đặt ông ngang hàng Khổng Tử; đến năm 1767, lại ban ông thêm hai chữ "Linh Hựu (靈佑)". Vua Gia Khánh ban ông hai chữ "Nhân Dũng(仁勇)" năm 1813; vua Đạo Quang tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇威顯關聖大帝)" năm 1828; vua Hàm Phong tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Quan Thánh Đại Đế(忠義神武靈佑仁勇威顯護國保民精誠綏靖關聖大帝) và ông cố, ông nội, cha ông được phong làm vương. Năm 1879, vua Quang Tự tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Thánh Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế(忠義神武靈佑仁勇威顯護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝)"; danh hiệu 26 chữ này là danh hiệu duy nhất dài nhất của ông, dài hơn thụy hiệu các vị Hoàng Đế [72], chứng tỏ sự tôn thờ to lớn dành cho ông.
Tào Tháo được xem là người đầu tiên dựng am thờ Quan Vũ, ngay tại quận Tiêu nước Bái quê mình - am Linh Thố.[73]
Sau đó nhiều nơi ở Trung Quốc đã lập đền thờ Quan Vũ. Do ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng ông càng trở nên thần thánh trong sự ngưỡng mộ của nhân dân. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi tại Võ miếu. Tại huyện Thái Hưng, tỉnh Giang Tô, ông được thờ cùng Nhạc Phi và Văn Thiên Tường.[74]
Việc thờ Quan Vũ có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Ông được nhân dân thờ như Thần độ mạng; giới thương nhân coi ông như thần tài; giới nho sĩ coi ông như thần văn học (tượng Quan Vũ trên 1 tay có cầm Kinh Xuân Thu); giới quân sự coi ông như vị thần bảo vệ bản mệnh. Người ta giải thích rằng sở dĩ ông có cả ảnh hưởng tới giới thương nhân vì hồi còn hàn vi ông từng làm nghề bán đậu phụ. Các đao phủ thường giấu đao trong đền thờ ông vì họ cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở oan hồn về báo oán.[75]
Trong Phật Giáo Đại thừa, ông được thờ như là một hiện thân của Già Lam Bồ Tát.
Do ảnh hưởng sâu rộng từ văn hóa Trung Hoa, việc thờ Quan Vũ ở Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, từ Bắc đến Nam. Các triều đại phong kiến Việt Nam tuân theo Nho giáo, đã lập nhiều Võ Miếu thờ ông. Trong dân gian, ông được tôn là thần Trung Nghĩa, thường gọi Hán Thọ Đình Hầu (漢壽亭侯), hay phổ biến là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Bàn thờ thường đặt trong điện Quan Đế.
Ông cũng được thờ trong nhiều chùa Phật giáo.
Những người theo đạo Hòa Hảo làm lễ Quan Thánh vào ngày 24 tháng 6 âm lịch[76]
Một số nơi thờ Quan Thánh ở Việt Nam:
Quan Vũ được dân gian tạc tượng và vẽ tranh rất nhiều, theo mô phỏng sự mô tả của Kinh Minh thánh: mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt.[77]
Thông dụng hơn cả trong tranh, tượng dân gian là hai kiểu: tượng ba ông và tượng năm ông.
Tượng ba ông gồm có Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng, tay vuốt râu, tay kia cầm Kinh Xuân Thu; sau lưng hai bên có Quan Bình đứng bên trái giữ ấn, Châu Thương đứng bên phải giữ thanh long đao.
Tượng năm ông tương tự như tượng ba ông, nhưng có vẽ thêm Trương Tiên cầm cung và Vương Thiên Quân cầm giản đứng hầu.[78]
Tại những nơi thờ Quan Công có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất được ghi nhận là:[79]
Dịch nghĩa:
Hay:
Dịch nghĩa:
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LSCC