Lễ Xây chầu là một lễ trong lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ, Việt Nam.
Lễ này, theo nhà văn Sơn Nam, là để nhắc nhở cội nguồn, đề cao tư thế con người trong vũ trụ, cầu mong sự hài hòa giữa Thiên, Địa, Nhơn (Nhân): tròn đạo Trời, vuông đạo Đất, sáng đạo Người. Con người luôn gắn bó với mặt trời, Mặt Trăng, tinh tú, cây cỏ, núi sông, mưa, nắng, gió[1].
Theo sách Văn hóa tâm linh Nam Bộ thì Xây chầu còn gọi là khai tràng (chầu hát, trường hát), khai thiên lập địa, khai thông thái cực. Lễ này vốn bắt nguồn từ lễ Đại Bội, diễn ra trong cung đình nhà Nguyễn[2]. Sau, lễ truyền ra ngoài và trở thành nét đặc trưng của lễ hội ở đinh miếu Nam Bộ. Và người có công bày ra là Tả quân Lê Văn Duyệt, khi ông đang giữ chức Tổng trấn Gia Định thành. Người Hoa và người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng không có lễ này [3].
Bàn về ý nghĩa lễ này, nhà văn Sơn Nam viết:
Xây chầu có nghĩa là dùng tiếng trống chầu đánh rõ từng tiếng để đổi mới Đất Trời. Trống phải được sơn màu đỏ, mặt trống vẽ hình tròn Âm Dương. Người đánh trống được gọi là Cổ quan (cổ là trống, quan là quan chức) hay Chấp sự viên, là người có đạo đức, có sức khỏe, có gia đình hạnh phúc, để có thể thay mặt cho dân làng và thực hiện được xuyên suốt các thao tác đánh trống. Đây là những phần lễ với những nghi thức khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản.
Căn cứ các sách ghi ở phần tham khảo, không đi sâu vào chi tiết, thì diễn biến lễ Xây chầu ngày nay đại để như sau:
Nhà văn Sơn Nam kể:
Theo Sổ tay hành hương đất Nam Bộ[6] thì:
Trống chầu được đặt ở hướng Đông (Đại lợi), và thường thì Chánh tế đánh ba lần trống khởi đầu:
Ba lần trống kế tiếp gọi là điểm cổ, đánh nhẹ cái hình Thái cực vẽ trên mặt trống.
Sau đó là ba hồi trống đánh mạnh, trước ít sau nhiều, mang ý nghĩa tiền bần hậu phú. Theo cổ lệ, phần này phải đánh cả thảy ba hồi là 300 (80-100-120) roi chầu, sau giảm bớt chỉ còn 216 (36-72-108) và chỉ nay còn 120 (20-40-60) roi, vì phần nhiều người biết đánh trống chầu giờ đây đều đã già, không đủ sức.
Các thành viên của Ban tế lễ và thân hào đồng "dạ" lớn. Vừa dứt, đánh ba hồi ba dùi, mỗi hồi...
Sau đó nhạc trỗi lên, quan viên cầm chầu và các đào kép bắt đầu sang phần Đại Bội.
Căn cứ lời kể của hai sách trên, cho thấy việc đánh trống Xây chầu của mỗi đình không hoàn toàn giống nhau.
Kế tiếp là lễ Đại bội nhằm trình diễn một số hoạt cảnh, giải thích nguồn gốc của con người trên trần thế, nhằm đề cao Trời Đất. Con người may mắn được ở giữa Trời Đất, cùng với hoa trái, chịu ảnh hưởng của gió, mưa, sấm, sét, cầu mong gió thuận mưa hòa. Các hoạt cảnh này do các diễn viên chuyên nghiệp ở các đoàn hát bội thực hiện. Sơ lược một số cảnh diễn như sau:
Một kép nam đóng ông già râu dài, tượng trưng cho ông Bàn Cổ, tay cầm nắm nhang, làm động tác gọi là "Điềm hương", gợi ý nhờ phát minh ra lửa, nhờ âm dương mà có sự phân chia Trời Đất. Khí Âm và Dương tương giao tương khắc, sinh ra muôn loài. Màn này, diễn viên múa một mình, không có hát điệu riêng.
Xang là múa. Một diễn viên nam tay cầm cái chén có bịt vải đỏ tượng trưng cho Mặt trời (Nhật) bước ra sân khấu múa hát:
Diễn viên nam hát xong thì diễn viên nữ tay cầm cái chén có bịt vải trắng, tượng trưng cho Mặt Trăng (Nguyệt) bước ra sân khấu múa hát:
Cứ như thế sau ba lần hát, ba lần hai chén chạm nhau (gọi là sang mặt) để thể hiện âm dương giao hòa, sinh muôn vật.
Ba diễn viên đóng ba ông già Phước, Lộc, Thọ (tam tinh). Ba ông cùng múa bát xướng, nối hồi, hát khách:
Tượng trưng cho tứ tượng: Thái dương, Thiếu dương, Thiếu âm, Thiếu âm. Màn này do bốn kép nam thủ vai võ tướng, mặt trắng, đầu đội kim khôi, chân đi hia, lưng mang cờ lệnh, lần lượt múa nhiều bộ linh động và cùng hát rằng:
Nhà văn Sơn Nam cho biết lễ này bắt nguồn từ huyền thoại Ấn Độ, ảnh hưởng đạo Phật và Bà La Môn. Khi đức Phật chào đời, chín con rồng hiện ra phun nước để tắm cho Ngài. Và bốn vị thiên vương gồm Ma Lễ Hải (chữ Phạn gọi là Virupaksha) làm mưa, Ma Lê Thanh (Dhritarashtra) thổi ống sáo tạo ra gió, Ma Lễ Thọ (Vashramana) gìn giữ cho mưa điều hòa và Ma Lễ Hồng (Vairudhaka) gảy cây đàn Ấn Độ điều tiết cho gió thổi vừa phải, đúng lúc. Bốn vị này tượng trưng cho mưa, gió, sấm, sét, hòa hợp với nhau, tạo cho mưa thuận gió hòa. Họ múa đủ bốn cửa rồi trụ lại, dâng bốn tấm liễn ngắn ghi Thiên hạ thái bình, Phong điều vũ thuận, Quốc thái dân an...Ban tế lễ đứng gần sân khấu nhận bốn tấm liễn và thưởng cho các nghệ nhân một số tiền tượng trưng trong phong bì đỏ, rồi đem liễn để lên bàn thờ thần.
Gồm năm diễn viên tham gia. Một Cái tên là Mã Viên, là một diễn viên nam, mặt trắng, đội mão, tay cầm quạt, tương đối còn trẻ, chứng tỏ dồi dào sinh lực, phải trang nghiêm, không cười lả lơi đứng giữa, mặc áo vàng tượng trưng hành Thổ, có nghĩa là Đất (đất ruộng). Xuân, Hạ, Thu, Đông tuy quan trọng nhưng phục vụ cho Đất. Bốn mùa luân chuyển, nếu thiếu Đất thì làm sao sản xuất lúa gạo được.
Bốn cô đào thài đứng bốn bên, mặc xiêm y sang trọng tượng trưng cho: -Mã Xuân mai: mùa xuân, mặc áo xanh, hành Mộc. -Mã Hạ mai: mùa hạ, mặc áo đỏ, hành Hỏa. -Mã Thu mai: mùa thu, mặc áo trắng, hành Kim. -Mã Đông mai: mùa Đông, mặc áo tím, hành Thủy.
Theo Sơn Nam, thì đây là hoạt cảnh quan trọng nhất về ngôi Ngũ hành. Tiết mục này vui tươi, ngoạn mục, linh động nhất mà mọi người đều ưa thích trong Lễ Đại Bội. Bốn cô đào thài mặc xiêm y sang trọng, tay cầm quạt phe phảy, yểu điệu, cùng ca theo giọng bình dân, ngân nga, nương theo tiếng trúc, với nụ cười. Bốn cô hát bài dài, có những câu như:
Ca ngợi đời Nghiêu - Thuấn thái bình, có vua Lê (hậu Lê), khi chúa Nguyễn vào Nam mở nước. Bốn cô nầy (gọi Con) đã kính cẩn lạy linh thần trước khi hát điệu Nam Xuân dụng, gần như hai tay cầm quạt phải cử động không ngừng, hát xong phân ra bốn gốc sân khấu.
Người Cái bước ra lạy linh thần rồi duyệt qua các cô đào thài (Xuân, Hạ, Thu, Đông), rồi đứng giữa (trung ương), hát điệu Nam Xuân. Hát xong, các đào thài đóng vai Con phụ họa theo, ca ngợi sự hân hoan của dân, của đất nước. Cái hát chúc thọ vị lãnh đạo Dân tộc, lạy tạ thần linh, kính chúc ban Tế lễ; rồi đào thài múa lượn, vẫn cầm quạt ca ngợi Tổ quốc, với nụ cười duyên dáng. Đào hát theo điệu gọi là Nhịp Một, có trồng đệm theo, gây phấn khởi, lạc quan.
Tám diễn viên nam đóng tám ông tiên (Bát tiên), múa hát chúc tụng thánh thần, chúc thọ dân làng. Múa hát xong, bát tiên dâng lễ dân làng. Dân làng tiếp nhận lễ, đặt lên bàn thờ hội đồng. Sau khi dân làng thưởng tiền bát tiên thì lễ Xây chầu chấm dứt, để bước sang phần Hát chầu, tức hát bội. Nhưng có đình diễn thêm màn nữa, đó là:
Ở màn này, một nghệ nhân mang mặt nạ ông Địa xuất hiện, rồi diễn vui. Đại ý là để ban sự thăng quan tiến chức cho những ai có lòng thành...[8]
Trần Kiều Quang viết:
Sau khi giới thiệu lễ Xây chầu trong sách Nói về Miền Nam, Sơn Nam đã kết luận:
Một vài hình ảnh trong lễ Khai tràng Đại bội tại đình Mỹ Phước, diễn ra vào lúc 4-5 giờ sáng ngày 8 tháng 6 năm 2014: