Đồng bằng sông Hồng (hay Châu thổ Bắc Bộ) là khu vực hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng bao gồm 10 tỉnh thành, gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Vùng có diện tích tự nhiên là 21.253 km2, chiếm 6,42% diện tích Việt Nam; dân số 23.102.211 người, chiếm 23,49% dân số Việt Nam; mật độ dân số 1.087 người/km2, cao nhất so với các vùng khác và gấp 3,66 lần so với mật độ trung bình chung của Việt Nam.[1]
Không giống như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên là không có núi, do đó khu vực này thường được gọi là "châu thổ sông Hồng".
Đồng bằng sông Hồng trải rộng từ phía bắc là 2 góc ở vĩ độ 21°40´B (huyện Bình Liêu, Quảng Ninh) và 21°34´B (huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc), tới 19°52´B (đảo Cồn Nổi, huyện Kim Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 108°04´Đ (mũi Sa Vĩ, thành phố Móng Cái, Quảng Ninh). Toàn vùng có diện tích 21.259,6 km², tỷ lệ khoảng 6,4% tổng diện tích cả nước.
Phía bắc và đông bắc giáp Đông Bắc Bộ, phía tây và tây bắc giáp Tây Bắc Bộ, phía tây nam giáp vùng Bắc Trung Bộ, phía đông và đông nam là vịnh Bắc Bộ. Đồng bằng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ các thềm phù sa cổ 10 - 15m xuống đến các bãi bồi 2 - 4m ở trung tâm rồi các bãi triều hàng ngày còn ngập nước triều.
STT | Tỉnh/thành phố | Thủ phủ | Quận | Huyện | Thành phố thuộc tỉnh | Thị xã | Dân số | Diện tích | Mật độ dân số |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Hà Nội | Hoàn Kiếm, Ba Đình | 12 | 17 | 0 | 1 | 8.418.883 | 3.358,9 | 2.506 |
2 | Hải Phòng | Hồng Bàng | 7 | 8 | 0 | 0 | 2.069.110 | 1.561,8 | 1.325 |
3 | Bắc Ninh | Bắc Ninh | 0 | 4 | 2 | 2 | 1.488.250 | 822,7 | 1.809 |
4 | Hưng Yên | Hưng Yên | 0 | 8 | 1 | 1 | 1.279.308 | 930,2 | 1.375 |
5 | Hà Nam | Phủ Lý | 0 | 4 | 1 | 1 | 867.258 | 860,9 | 1.007 |
6 | Nam Định | Nam Định | 0 | 9 | 1 | 0 | 1.876.854 | 1.668 | 1.125 |
7 | Thái Bình | Thái Bình | 0 | 7 | 1 | 0 | 1.876.579 | 1.570,5 | 1.195 |
8 | Ninh Bình | Ninh Bình | 0 | 6 | 2 | 0 | 1.000.093 | 1.387 | 721 |
9 | Hải Dương | Hải Dương | 0 | 9 | 2 | 1 | 2.105.241 | 1.668,2 | 1.262 |
10 | Vĩnh Phúc | Vĩnh Yên | 0 | 7 | 2 | 0 | 1.184.074 | 1.235,2 | 95 |
Các nhà nghiên cứu như Giáo sư Trần Quốc Vượng gọi vùng này là châu thổ Bắc bộ mà không gọi đồng bằng sông Hồng vì lý do:[2]
Toàn bộ miền đồng bằng sông Hồng nằm trên một lớp đá kết tinh cổ, loại nền đá ở vùng Đông Bắc. Cách đây 200 triệu năm, vào cuối đại Cổ sinh, lớp đá này bị sụt xuống. Vào thời đó, biển lên đến quá Việt Trì ngày nay, tiến sát các vùng đồi Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Nho Quan. Cửa sông Hồng lúc đó ở Việt Trì. Chế độ biển kéo dài trên 170 triệu năm. Các trầm tích Neogen lắng xuống làm cho vịnh biển thu hẹp lại. Lớp trầm tích này có nơi dày đến 3000 mét. Trên cùng là lớp phù sa Holocen dày từ 80 đến 100 mét ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, và càng xa trung tâm thì càng mỏng dần.
Trong đồng bằng sông Hồng có nhiều ô trũng tự nhiên, điển hình là ô trũng Hà Nam Ninh, ô trũng Hải Hưng và ô trũng Nho Quan. Ngoài ra còn có rất nhiều đầm lầy. Trầm tích và phù sa do các sông vận chuyển ra khỏi lòng sông mỗi mùa lũ đã không lấp được các ô trũng và đầm lầy này do chúng quá xa sông hoặc do bị đê điều nhân tạo ngăn cản. Việc các sông đổi dòng cũng tạo ra nhưng đầm lầy và ao hồ.
Lịch sử phát triển dân số | ||||||||||||||||
Năm | Dân số | |||||||||||||||
1995 | 17.078.400 | |||||||||||||||
1996 | 17.289.800 | |||||||||||||||
1997 | 17.494.800 | |||||||||||||||
1998 | 17.692.900 | |||||||||||||||
1999 | 17.877.800 | |||||||||||||||
2000 | 18.060.700 | |||||||||||||||
2001 | 18.249.900 | |||||||||||||||
2002 | 18.432.900 | |||||||||||||||
2003 | 18.617.500 | |||||||||||||||
2004 | 18.807.900 | |||||||||||||||
2005 | 18.976.700 | |||||||||||||||
2006 | 19.108.900 | |||||||||||||||
2007 | 19.228.800 | |||||||||||||||
2008 | 19.473.700 | |||||||||||||||
2009 | 19.618.100 | |||||||||||||||
2010 | 19.803.300 | |||||||||||||||
2011 | 19.999.300 | |||||||||||||||
2016 | 21.237.416 | |||||||||||||||
Nguồn:[4] |
Dân số khu vực Đồng bằng sông Hồng hiện nay là 21.848.913 người (năm 2021) chiếm khoảng 22,3% tổng dân số cả nước,[5] với bình quân khoảng 1.450 người/km2. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước.Đa số dân số là người Kinh, một bộ phận nhỏ thuộc Ba Vì (Hà Nội) và Nho Quan (Ninh Bình) có thêm dân tộc Mường.
Vùng đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng đồng bằng sông Hồng do Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quân khu 2, Quân khu 1, Quân khu 3 bảo vệ.
Quân đoàn 1, còn gọi là Binh đoàn Quyết Thắng, được thành lập ngày 24 tháng 10, đóng tại thành phố Tam Điệp, Ninh Bình là một trong 4 binh đoàn chủ lực ở Việt Nam.
Kết cấu hạ tầng phát triển mạnh (giao thông, điện, nước...),
Các ngành công nghiệp mà đồng bằng sông Hồng có là: luyện kim, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, nhiệt điện. Các ngành công nghiệp khai thác: khai thác khí dầu, khai thác đá vôi, khai thác cao lanh.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng mạnh từ 18,3 nghìn tỷ đồng (1995) lên 55,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% cả nước.[cần dẫn nguồn] Những nơi có nhiều ngành công nghiệp tập trung nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh.
Tính đến cuối năm 2009 Lưu trữ 2010-08-12 tại Wayback Machine, vùng Đồng bằng sông Hồng có 61 Khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên trên 13.800 ha, trong đó có 9.400 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. So với cả nước, vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 26% về số lượng KCN và 23% về diện tích đất tự nhiên các KCN.
Đồng bằng sông Hồng là khu vực có đất đai trù phú, phù sa màu mỡ. Diện tích và tổng sản lượng lương thực chỉ đứng sau Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao, lâu đời.
Sản lượng lúa của khu vực tăng từ 44,4 tạ/ha (1995) lên là 58,9 tạ /ha (2008)
Không chỉ có sản lượng lúa tăng mà còn có một số lương thực khác như ngô, khoai tây, cà chua, cây ăn quả... cũng tăng về mặt sản lượng và cả chất lượng. Đem lại hiệu quả cho ngành kinh tế của vùng. Vụ đông trở thành vụ sản xuất chính.
Nuôi lợn, bò và gia cầm cũng phát triển mạnh của vùng
Vùng duyên hải Bắc Bộ gồm Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình nằm giáp biển, có nhiều cửa sônglớn đổ ra, thuận lợi phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
Đồng bằng sông Hồng là vùng có hạ tầng giao thông đồng bộ và thuận lợi, hoạt động vận tải sôi nổi nhất. Có nhiều đường sắt nhất đi qua các nơi khác nhau trong vùng.
Đồng bằng sông Hồng có nhiều địa danh du lịch như Tam Đảo, Hồ Tây, Chùa Hương, chùa Phật Tích, Tam Cốc-Bích Động, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Phố Hiến, Cúc Phương, Tràng An, Chùa Bút Tháp, Chùa Tam Chúc, Cát Bà, Phủ Dầy, Đền Trần, Chùa Keo, Chùa Dâu, Đền Đô, Vườn quốc gia Xuân Thủy, biển Quất Lâm...
Sân bay: sân bay lớn nhất nằm ở Nội Bài (Hà Nội). Cảng: có cảng Hải Phòng lớn nhất nên Hà Nội và Hải Phòng là 2 đầu mối quan trọng. Cảng sông quan trọng là cảng Ninh Phúc và cảng Nam Định.
Bưu chính viễn thông phát triển mạnh của vùng. Hà Nội là trung tâm thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ, có nhiều tài chính, ngân hàng lớn nhất Việt Nam.
Stt | Tên tỉnh | Thủ phủ[7] | Thành phố | Thị xã | Quận | Huyện | Diện tích (km²) |
Dân số (người) |
Mật độ (km²) |
Biển số xe | Mã vùng ĐT |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
đến 33, 40 |
|||||||||||
2 | 4 | 1.488.250 | 1.809 | ||||||||
16 |
|||||||||||
Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của một tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừ thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng là hai thành phố trực thuộc Trung ương). Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc có thành phố là Vĩnh Yên và Phúc Yên, tỉnh Hải Dương có hai thành phố là Hải Dương và Chí Linh, tỉnh Bắc Ninh có hai thành phố là Bắc Ninh và Từ Sơn, tỉnh Ninh Bình có hai thành phố là Ninh Bình và Tam Điệp.
Trong suốt thời kỳ từ đầu năm 1945 cho đến năm 1997, toàn vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có ba thành phố là Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Từ năm 1997 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh.
Các thành phố lập đến năm 1975:
Hiện nay, ở vùng đồng bằng sông Hồng có 1 đô thị loại đặc biệt: thành phố Hà Nội (trực thuộc Trung ương); 5 đô thị loại I: thành phố Hải Phòng (trực thuộc Trung ương), thành phố Nam Định (thuộc tỉnh Nam Định), thành phố Bắc Ninh (thuộc tỉnh Bắc Ninh), thành phố Hải Dương (thuộc tỉnh Hải Dương). Các thành phố là đô thị loại II: thành phố Thái Bình (thuộc tỉnh Thái Bình), thành phố Ninh Bình (thuộc tỉnh Ninh Bình), thành phố Vĩnh Yên (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), thành phố Phủ Lý (thuộc tỉnh Hà Nam). Các thành phố còn lại hiện nay đều là các đô thị loại III trực thuộc tỉnh.
Tính đến ngày 14 tháng 2 năm 2023, vùng Đồng bằng sông Hồng có:
|title=
(trợ giúp)