Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào

Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào
Quân lực Hoàng gia Lào
Forces Armées du Royaume
Royal Lao Armed Forces
Quân huy Quân lực Hoàng gia Lào 1955-1975
Thành lập1949
Giải tán1975
Các nhánh
phục vụ
Lục quân Hoàng gia Lào
Không quân Hoàng gia Lào
Thủy quân Hoàng gia Lào
Sở chỉ huyViêng Chăn
Lãnh đạo
Tổng tư lệnhKhông rõ
Chỉ huyKhông rõ
Nhân lực
Số quân tại ngũ47,450 (lúc cao điểm)
Công nghiệp
Nhà cung cấp nước ngoài Việt Nam Cộng hòa
 Philippines
 Indonesia
 Trung Quốc
 Trung Hoa Dân Quốc
 Pháp
 Anh
 Mỹ
 Úc
 Thái Lan
Bài viết liên quan
Lịch sửLịch sử quân sự Lào

Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào hoặc Quân lực Hoàng gia Lào (tiếng Pháp: Forces Armées du Royaume viết tắt FAR), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của Vương quốc Lào, một nhà nước từng tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 1949 đến 1975 và được thay thế bởi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. FAR chịu trách nhiệm về quốc phòng của Vương quốc Lào kể từ khi giành độc lập từ tay Pháp vào tháng 10 năm 1953.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào được thành lập vào ngày 11 tháng 5 năm 1947, khi Vua Sisavang Vong ban bố bản hiến pháp tuyên bố Lào là một quốc gia độc lập (và tái lập Vương quốc kể từ năm 1949) trong khuôn khổ là thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp. Hành động này báo hiệu việc tạo ra một chính phủ Lào có khả năng xây dựng chính quyền riêng của mình trong vài năm tới, bao gồm cả việc thành lập một lực lượng quốc phòng. Quân đội Lào đã chính thức thành lập vào tháng 7 năm 1949 từ việc góp nhặt những đơn vị quân cảnh và cảnh sát Lào từ trước, quân thực dân bản địa chính quy và các lực lượng phụ trợ không chính quy tăng cường cho địa phương. Tuy nhiên, quá trình hình thành đã sớm bị cản trở bởi sự phát triển của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đang diễn ra ở nước láng giềng Việt Nam, vì vậy vào năm 1952, Quân đội Quốc gia Lào (tiếng Pháp: Armée Nationale Laotienne - ANL) - tiền thân của Quân đội Hoàng gia Lào đã thực sự bắt đầu hình thành.[1]

Bộ chỉ huy vùng

[sửa | sửa mã nguồn]

Lào vào đầu những năm 1960 được chia thành năm quân khu (MR, Régions Militaires theo tiếng Pháp) gần tương ứng với các khu vực của 13 tỉnh trên cả nước,[2] được tổ chức như sau:

  • Quân khu I – Bộ Tư lệnh Quân khu I đặt tại Luang Prabang, được xem là quân khu lớn nhất, bao gồm toàn bộ vùng Tây Bắc Lào và bao phủ các tỉnh Luang Prabang, Xayabury, Oudomxay, Luang Namtha, và Phongsaly.
  • Quân khu II – Bộ Tư lệnh Quân khu II đặt tại Long Cheng ở tỉnh Xiengkhuang, quân khu II bao phủ vùng Đông Bắc Lào bao gồm các tỉnh XiengkhuangHuaphanh.
  • Quân khu III – Bộ Tư lệnh Quân khu III đặt tại Savannakhet, thủ phủ tỉnh Savannakhet, quân khu III bao phủ vùng Thượng Lào, bao gồm các tỉnh SavannakhetKhammouane.
  • Quân khu IV – Bộ Tư lệnh Quân khu IV đặt tại Pakse, thủ phủ tỉnh Champassak, quân khu IV bao phủ vùng Hạ Lào bao gồm các tỉnh Champasack, SaravaneAttapeu.
  • Quân khu V – Bộ Tư lệnh Quân khu V đặt tại Trại Chinaimo, nằm ở vùng ngoại ô phía đông Viêng Chăn, quân khu V bao phủ vùng Thủ đô, trong đó bao gồm trụ sở chính quyền trung ương quốc gia và tỉnh cùng tên Viêng Chăn.

Quân chủng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 1961 quân đội Hoàng gia Lào gồm ba quân chủng lục, không quân và thủy quân. Vai trò chủ yếu của họ là: đảm bảo chủ quyền của nhà vua, bảo đảm sự ổn định và an ninh nội bộ bằng cách duy trì trật tự xã hội và chính trị, và bảo vệ Vương quốc Lào chống lại ngoại xâm. Được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc phòng Chính phủ Hoàng gia Lào tại thủ đô Viêng Chăn, các phân nhánh của FAR đã được tổ chức như sau:

Lực lượng đặc biệt

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lữ đoàn dù số 7
  • Sư đoàn xung kích số 2
  • Lực lượng Biệt kích Quân khu 5
  • Lực lượng Biệt động quân đột kích
  • Lực lượng Biệt kích đặc biệt (SPECOM)
  • Các toán Biệt kích cơ động (SGU)

Cơ sở huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tâm huấn luyện nhảy dù

[sửa | sửa mã nguồn]

Để huấn luyện các tiểu đoàn dù Lào, trung tâm huấn luyện nhảy dù được thành lập bởi người Pháp tại căn cứ không quân Wattay ngay bên ngoài Viêng Chăn vào tháng 9 năm 1948, tiếp theo sau này tới tháng 2 năm 1960 bằng Vang Vieng, nằm 17 Km từ Viêng Chăn, với sự giúp đỡ của cố vấn Mỹ MAAG, và Seno, gần Savannakhet. Trường nhảy dù thứ tư được thành lập một thời gian ngắn bởi phe Trung lập tại Muang Phanh vào đầu tháng 5 năm 1964, nhưng đã xảy ra các cuộc tấn công của Pathet Lào cùng tháng buộc các cán bộ huấn luyện phải chuyển đến Vang Vieng.[3]

Trung tâm huấn luyện bộ binh và biệt kích

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong đợt tái tổ chức năm 1971, hai trung tâm huấn luyện song song bộ binh/biệt kích được người Mỹ giúp thiết lập tại Phou Khao Khouai, phía bắc Viêng Chăn và Seno gần Savannakhet cho các sư đoàn xung kích mới của Quân đội Hoàng gia Lào (RLA). Một phần ba, CIA đã rút khỏi trại bí mật PS 18 gần Pakse tỉnh Champassak[4] được sử dụng cho hai tiểu đoàn RLA để tăng cường trong quân khu 4.[5]

Ngoại trợ

[sửa | sửa mã nguồn]
Cố vấn PEO Jack F. Mathews cùng Thiếu tá Vàng Pao, chỉ huy Tiểu đoàn Bộ binh số 10 (10éme Bataillon de Infanterie - 10éme BI), tại Nong Net, tháng 7 năm 1960.

Trong suốt quá trình tồn tại, FAR đã nhận được sự hỗ trợ quân sự vào các thời điểm và giai đoạn khác nhau từ một số quốc gia, bao gồm Pháp, Anh, Mỹ, Thái Lan, Miến Điện, Philippines, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa, Indonesia, Úc, và thậm chí (một thời gian ngắn) cả từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòaLiên Xô.[6]

Để đối phó với mối đe dọa do lực lượng nổi dậy Pathet Lào gây ra, FAR phụ thuộc vào một phái đoàn huấn luyện quân sự nhỏ của Pháp (Mission Militaire Française près du Gouvernment Royale du LaosMMFI-GRL),[7] đứng đầu bởi một sĩ quan cấp tướng, một quan chức đặc biệt được bổ nhiệm theo quy định của Hiệp định Geneva 1955, cũng như sự hỗ trợ bí mật từ Mỹ dưới hình thức Cơ quan Chương trình Đánh giá (Programs Evaluation Office - PEO, thành lập ngày 15 tháng 12 năm 1955), được thay thế vào năm 1961 bởi Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG, thành lập năm 1955), sau đó được đổi vào tháng 9 năm 1962 thành Văn phòng Thiết yếu (Requirements Office - RO).[8] Từ năm 1962 đến năm 1971, Mỹ cung cấp viện trợ quân sự trực tiếp cho Lào, nhưng không bao gồm chi phí trang bị và huấn luyện các lực lượng không chính quy và bán quân sự của Cục Tình báo Trung ương (CIA).

Các sinh viên sĩ quan (Aspirants) và các sĩ quan trung cao cấp Lào tu nghiệp ban đầu được gửi đến Pháp, sau đó là Thái Lan và Mỹ, để được đào tạo cơ bản và cấp cao tại các Học viện Quân sự và Cao đẳng Tham mưu tương ứng của họ. Ít nhất có 10 sinh viên sĩ quan Lào đã được gửi đến Học viện Quân sự Saint Cyr (École spéciale militaire de Saint-Cyr) danh tiếng ở Pháp, trong khi các sĩ quan cấp cao tham gia các khóa học tham mưu tại Trung tâm đào tạo quân sự cao cấp (Centre des hautes études militaires) ở Paris;[9] ngoài ra, cũng có nhiều sĩ quan Lào khác được đào tạo tại Trường Chỉ huy và Tham mưu Lục quân Hoa Kỳ (United States Army Command and General Staff College) tại Fort Leavenworth, Kansas. Ngoài ra, một số ít học viên sĩ quan hải quân Lào (Eléves Officiers de MarineEOM) cũng được cử sang Pháp để theo học các khóa Sĩ quan sơ và trung cấp tại Học viện Hải quân Pháp (École navale) ở Brest.[10]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Savada, Andrea Matles; Whitaker, Donald P. (1995). “Laos : a country study”. Washington, DC: Federal Research Division, Library of Congress. LCCN 95017235. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2022.
  2. ^ Conboy and McCouaig, The War in Laos 1960-75 (1989), p. 4.
  3. ^ Conboy and McCouaig, South-East Asia Special Forces (1991), pp. 15-19.
  4. ^ Conboy, FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975 (2011), pp. 275-276.
  5. ^ Conboy and McCouaig, The War in Laos 1960-75 (1989), p. 46, Plate G2.
  6. ^ Conboy and McCouaig, The War in Laos 1960–75 (1989), p. 5.
  7. ^ Conboy and McCouaig, The War in Laos 1960-75 (1989), pp. 24; 33.
  8. ^ Ahern, Undercover Armies: CIA and Surrogate Warfare in Laos (2006), pp. 52; 55.
  9. ^ Sananikone, The Royal Lao Army and U.S. Army advice and support (1981), pp. 17–18.
  10. ^ Sananikone, The Royal Lao Army and U.S. Army advice and support (1981), p. 18.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Kenneth Conboy and Don Greer, War in Laos, 1954-1975, Squadron/Signal Publications, 1994. ISBN 0897473159
  • Kenneth Conboy, Kenneth Bowra, and Simon McCouaig, The NVA and Viet Cong, Elite 38 series, Osprey Publishing Ltd, Oxford 1992. ISBN 9781855321625
  • Kenneth Conboy with James Morrison, Shadow War: The CIA's Secret War in Laos, Boulder CO: Paladin Press, 1995.
  • Kenneth Conboy and Simon McCouaig, The War in Laos 1960-75, Men-at-arms series 217, Osprey Publishing Ltd, London 1989. ISBN 9780850459388
  • Khambang Sibounheuang (edited by Edward Y. Hall), White Dragon Two: A Royal Laotian Commando's Escape from Laos, Spartanburg, SC: Honoribus Press, 2002. ISBN 978-1885354143
  • Timothy Castle, At War in the Shadow of Vietnam: United States Military Aid to the Royal Lao Government, 1955–1975, Columbia University Press, 1993. ISBN 978-0-231-07977-8
  • Kenneth Conboy, FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975, Equinox Publishing (Asia) Pte Ltd, Djakarta 2011. ISBN 9789793780863
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Fun Fact về Keqing - Genshin Impact
Fun Fact về Keqing - Genshin Impact
Keqing có làn da trắng và đôi mắt màu thạch anh tím sẫm, với đồng tử hình bầu dục giống con mèo với những dấu hình kim cương trên mống mắt
Nhân vật Sakata Gintoki trong Gintama
Nhân vật Sakata Gintoki trong Gintama
Sakata Gintoki (坂田 銀時) là nhân vật chính trong bộ truyện tranh nổi tiếng Gintama ( 銀 魂 Ngân hồn )
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker (Kẻ dò tìm) là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các người lính phản lực của Decepticon trong The Transformers
Review Smile - Kinh dị tốt, ý tưởng hay nhưng chưa thoát khỏi lối mòn
Review Smile - Kinh dị tốt, ý tưởng hay nhưng chưa thoát khỏi lối mòn
Smile là một bộ phim kinh dị tâm lý Mỹ năm 2022 do Parker Finn viết kịch bản và đạo diễn, dựa trên bộ phim ngắn năm 2020 Laura Has’t Slept của anh ấy