Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Pháp luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực vủa đời sống quốc tế. Đó là các nguyên tắc và quy phạm áp dụng chung mà không có sự phân biệt về tính chất, hình thức hay vị thế của từng quốc gia khi thiết lập quan hệ quốc tế giữa những chủ thể này với nhau.
Pháp luật quốc tế được coi là hệ thống pháp luật, gồm nhiều ngành luật cấu thành Luật Nhân đạo quốc tế; Luật Hàng không dân dụng quốc tế; Luật Ngoại giao và lãnh sự; Luật Tổ chức quốc tế; Luật quốc tế về môi trường…
Cùng với sự ra đời của các quốc gia độc lập như Hy Lạp, La Mã cổ đại ở phương Tây; Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông mối liên hệ giữa các quốc gia cũng dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, những thỏa thuận liên kết để chống ngoại xâm cũng như giải quyết hậu quả chiến tranh… Các quan hệ khi hình thành đòi hỏi phải được điều chỉnh về mặt pháp lý quốc tế. Do đó, ngay từ thời chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện những nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia.
Thời Cổ đại, Luật Vạn dân của Nhà nước La Mã cổ đại đã có quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước La Mã với các quốc gia khác; giữa người dân La Mã với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau sinh sống tại La Mã. Do đó Luật Vạn dân đánh dấu sự ra đời của Luật Quốc tế.
Đến Thế kỷ thứ XVI, nhà luật học F.Vitoria (Tây Ban Nha) dùng thuật ngữ “Luật giữa các dân tộc” và đến Thế kỷ XVII thuật ngữ này được sử dụng trong đời sống quốc tế.
Năm 1780, nhà Triết học Jeremy Bentham (Anh) viết tác phẩm nổi tiếng “Giới thiệu về các nguyên tắc về đạo đức và pháp luật”, thuật ngữ “Pháp luật quốc tế” được ra đời và trở thành tên gọi của một ngành khoa học pháp lý phát triển ở nhiều quốc gia.
Với tư cách là một ngành luật, Luật Quốc tế có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng. Tuy nhiên, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế, như:
Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế là: những quan hệ pháp lý quốc tế phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau; những quan hệ này có nhiều mặt nhưng chủ yếu là những quan hệ mang tính chính trị và được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế.
Là cách thức và biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật quốc tế. Các chủ thể của luật quốc tế sử dụng nhiều cách thức và biện pháp khác nhau, trong đó, có hai phương pháp được sử dụng phổ biến là:
Luật Quốc tế quy định một số biện pháp cưỡng chế:
Nguồn của luật quốc tế là những hình thức có chứa đựng những nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế được thể hiện dưới hình thức văn bản do các chủ thể quan hệ pháp lý quốc tế thỏa thuận xây dựng nên hoặc các tập quán quốc tế, được hình thành từ thực tiễn đời sống quốc tế, được các chủ thể thừa nhận một cách rộng rãi.
Căn cứ vào tính chất pháp lý chung và sự thỏa thuận của các chủ thể, có thể chia nguồn của luật quốc tế thành hai loại: nguồn cơ bản và nguồn hỗ trợ.
Nguồn cơ bản của pháp luật quốc tế: Là nguồn chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế có giá trị ràng buộc đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế, bao gồm: điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Nguồn hỗ/bổ trợ của luật quốc tế: Về nguyên tắc, nguồn hỗ trợ không phải là hình thức biểu hiện trực tiếp các quy phạm và nguyên tắc của pháp luật quốc tế mà chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình hình thành các quy phạm của pháp luật quốc tế. Nguồn hỗ trợ gồm có:
Là những thực thể độc lập, không phụ thuộc vào phạm vi, không bị lệ thuộc trong lĩnh vực quan hệ quốc tế và bất kỳ quyền lực chính trị nào và phải có năng lực pháp lý thực hiện độc lập quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy phạm pháp luật quốc tế.
Các loại chủ thể của pháp luật quốc tế gồm có:
Hiện nay, quan điểm được thừa nhận rộng rãi về mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là Thuyết Đối đẳng:
Cách thức quốc gia xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế phụ thuộc vào: (1) nhu cầu lợi ích tự thân của quốc gia; (2) việc pháp luật quốc gia và các quy tắc liên quan của pháp luật quốc tế quy định về một vấn đề cụ thể như thế nào; (3) không phụ thuộc vào quan niệm pháp luật quốc gia cao hơn hay thấp hơn pháp luật quốc tế.
Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế có mối quan hệ phụ thuộc, ảnh hưởng, bổ sung cho nhau: Nhà nước ban hành pháp luật quốc gia, đồng thời Nhà nước cùng với các quốc gia khác tham gia vào quá trình ban hành pháp luật quốc tế. Khi ban hành pháp luật quốc gia, Nhà nước phải xem xét đầy đủ tới các quy định của pháp luật quốc tế, không thể bỏ qua những quy tắc, quy định được cộng đồng quốc tế thừa nhận, phải thể hiện nghĩa vụ quốc tế trong pháp luật quốc gia, đồng thời để pháp luật trong nước không xung đột với pháp luật quốc tế. Quốc gia khi tham gia xây dựng, thông qua pháp luật quốc tế không thể bỏ qua vấn đề chủ quyền quốc gia và các quy định của pháp luật trong nước, cần phải tính đến khả năng thực thi pháp luật trong nước. Pháp luật quốc gia là công cụ, phương tiện để hoàn thiện, phát triển và thực hiện pháp luật quốc tế (định hướng, cơ sở quan trọng cho hoàn thiện, phát triển nội dung, tính chất pháp luật quốc tế; là đảm bảo pháp lý để các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế được thực hiện trong phạm vi quốc gia thông qua nội luật hóa).
Trong những điều kiện nhất định, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế có thể chuyển hóa cho nhau, trở thành nguồn của nhau: pháp luật quốc gia phải chuyển hóa các quy định mang tính nguyên tắc của pháp luật quốc tế vào nội dung các quy định của pháp luật quốc gia; những quốc gia áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước quốc tế thì pháp luật quốc tế sẽ trở thành nguồn của pháp luật quốc gia. Ngược lại, một số nguyên tắc, quy tắc trong pháp luật quốc gia được đa số các quốc gia thừa nhận, sử dụng nhiều lần dần trở thành tập quán quốc tế và đưa vào Điều ước quốc tế, trở thành nguồn của pháp luật quốc tế: Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền; không can thiệp vào công việc nội bộ; quyền dân tộc tự quyết trong Hiến chương Liên hiệp quốc là từ Sắc lệnh về hòa bình của Nhà nước Xô Viết…
Không quốc gia nào được phép lấy lý do viện dẫn quy định của pháp luật trong nước để từ chối thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật quốc tế; không quốc gia nào được lấy cớ dựa vào quy định của pháp luật quốc tế để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với quốc gia khác trừ trường hợp được phép theo quy định của Hiến chương Liên hiệp quốc.