Màn hình LED

Chi tiết của một màn hình LED với ma trận xanh, đỏ và lam.
Màn hình LED dài 1,500 bước (460m) tại Đường Fremot Experience thuộc Downtown Las Vegas, Nevada hiện là màn hình LED lớn nhất thế giới.

Màn hình LED là một màn hiển thị phẳng dùng một dãy LED như các điểm ảnh. Độ sáng của LED cho phép chúng được sử dụng ngoài trời, nơi có ánh nắng hắt vào, cho biển quảng cáo, biển hiệu,.... Trong những năm gần đây, chúng được sử dụng rộng rãi trong biển chỉ hướng trên các phương tiện giao thông công cộng, cũng như các biển chỉ báo trên cao tốc. Màn hình LED phù hợp cho việc cung cấp ánh sáng cho các màn hình hiển thị, ví dụ như ánh sáng sân khấu hoặc cho mục đích trang trí (cũng như thông báo).

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Diode phát quang xuất hiện lần đầu vào năm 1962 và chỉ có màu đỏ trong suốt thập kỉ đầu tiên. Đèn LED đầu tiên được phát minh bởi Nick Holonyak, Jr khi ông làm việc cho General Electric.

Màn hình LED đầu tiên có thể sử dụng đã được phát triển bởi Hewlett-Packard (HP) và được ra mắt vào năm 1968.[1] Nó là thành quả của viện nghiên cứu và phát triển (R&D) về LEDs từ năm 1962 đến 1968, bởi đội nghiên cứu dưới sự lãnh đạo của Howard C. Borden, Gerald P. Pighini, và kĩ sư người Ai Cập Mohamed "John" Atalla, tại liên hợp HP và phòng thí nghiệm HP. Tháng 2 năm 1969, họ công bố mẫu màn chỉ thị LED HP 5082-7000. Là màn hình hiển thị LED thông minh đầu tiên, và là một cuộc cách mạng với công nghệ hiển thị điện tử, thay thế cho đèn Nixie và trở thành nền tảng cho màn hiển thị LED sau này.

Các mẫu ban đầu là thiết kế đơn sắc. Đèn LED xanh hoàn thành bộ ba màu không xuất hiện trên thị trường cho đến cuối những năm 1980.

Màn hình video lớn

[sửa | sửa mã nguồn]

Trận chung kết UEFA Champions League 2011 giữa Manchester UnitedBarcelona đã được phát trực tiếp dưới định dạng 3D ở Gothenburg (Thụy Điển), trên màn hình EKTA. Nó có tần số làm mới là 100   Hz, kích thước 7,11 m (23   ft 3,92 in) và diện tích hiển thị 6.192 × 3.483 m, và được liệt kê trong Sách kỷ lục Guinness là TV LED 3D lớn nhất.[2]

Phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên mẫu sớm

[sửa | sửa mã nguồn]

Một yêu cầu cho 'màn hình tivi phẳng toàn LED đầu tiên' được trình bày trong phần này. Nó có thể được phát triển, chứng minh và ghi lại bởi James P. Mitchell vào năm 1977. Sự công nhận ban đầu đến từ nhóm Tìm kiếm tài năng khoa học của Quỹ giáo dục Westinghouse, một tổ chức Dịch vụ Khoa học.[3] Bài viết được đặt tên trong "Nhóm danh dự" được công bố cho các trường đại học vào ngày 25 tháng 1 năm 1978.[4] Bài báo sau đó được mời và trình bày tại Học viện Khoa học Iowa tại Đại học Bắc Iowa.[5][6] Nguyên mẫu hoạt động đã được hiển thị tại Đông Iowa SEF [7] vào ngày 18 tháng 3 và nhận được giải thưởng "Khoa học vật lý" hàng đầu và sự công nhận của IEEE. Dự án một lần nữa được hiển thị tại SEF quốc tế thứ 29 tại Anaheim Ca. Trung tâm hội nghị ngày 8 tháng 510.[8] Nguyên mẫu mô-đun màn hình phẳng thu nhỏ mỏng inch inch, giấy khoa học và sơ đồ toàn màn hình (ma trận LED lát gạch) với giao diện video đã được hiển thị tại sự kiện này.[9][10] Nó đã nhận được giải thưởng của NASA [11]General Motors Corporation.[12][13][14] Dự án này đã đánh dấu một số tiến bộ sớm nhất hướng tới việc thay thế hệ thống CRT tương tự điện áp cao 70 tuổi (công nghệ ống tia âm cực) với ma trận LED quét kỹ thuật số được điều khiển bằng một định dạng video RF truyền hình NTSC. Bài viết của Mitchell dự kiến việc thay thế CRT trong tương lai và bao gồm các ứng dụng dự kiến cho các thiết bị chạy bằng pin do những lợi thế của mức tiêu thụ điện năng thấp. Sự dịch chuyển của các hệ thống quét điện từ bao gồm việc loại bỏ độ lệch cảm ứng, chùm electron và mạch hội tụ màu và là một thành tựu quan trọng. Các tính chất độc đáo của diode phát sáng như một thiết bị phát xạ giúp đơn giản hóa độ phức tạp quét ma trận và đã giúp truyền hình hiện đại thích ứng với truyền thông kỹ thuật số và thu nhỏ lại thành yếu tố hình dạng mỏng hiện tại.

Các mô hình năm 1977 là đơn sắc theo thiết kế.

Những phát triển gần đây

[sửa | sửa mã nguồn]

Màn hình MicroLED hiện đang được phát triển bởi nhiều tập đoàn lớn như Apple, Samsung và LG.

Những màn hình này có thể dễ dàng mở rộng và cung cấp một quy trình sản xuất hợp lý hơn. Tuy nhiên, chi phí sản xuất vẫn là một yếu tố hạn chế.[15]

Màn hình LED lớn 40m tại sự kiện Armin Only vào tháng 4 năm 2008 tại Jaarbeurs Utrecht
Màn hình LED tại Nhà thi đấu Đài Bắc hiển thị quảng cáo và đoạn phim quảng cáo.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kramer, Bernhard (2003). Advances in Solid State Physics. Springer Science & Business Media. tr. 40. ISBN 9783540401506.
  2. ^ Largest LED 3D TV. guinnessworldrecords.com
  3. ^ Science Service 1719 N Street N.W. Washington, D.C. 20036 (1978), https://student.societyforscience.org/science-talent-search-through-years Lưu trữ 2016-04-28 tại Wayback Machine.
  4. ^ The honors group STS projects were released for publication ngày 25 tháng 1 năm 1978 to "all leading universities and colleges of the united States utilizing a list furnished for the American Council on Education".
  5. ^ This event was held April 21–22 in Cedar Falls, Iowa at the UNI campus
  6. ^ Mitchell's abstract title "Light Emitting Diode Television Screen" was published in the Honors Group of the 37th Annual Science Talent Search for the Westinghouse Science Scholarship and Awards in 1978, this qualified Mitchell for the UNI paper presentation that followed
  7. ^ “EISEF”. Truy cập 28 tháng 9 năm 2023.
  8. ^ “EISEF”. Truy cập 28 tháng 9 năm 2023.
  9. ^ Project was viewed by ISEF judges, Los Angeles area college professors, the 1977 president of the national chapter of the IEEE, and also included a public viewing.
  10. ^ The prototype and scientific paper "Light Emitting Diode Television Screen" were part of exhibit #635.
  11. ^ 29th ISEF "Announcement of Awards", p. 4, ngày 13 tháng 5 năm 1978, published by the Science Service, 1719 N Street Washington D.C. 20036.
  12. ^ 3rd Grand GM ISEF award, GM was also the corporate sponsor of the 1978 Science Service event. 1978 29th Annual ISEF "Announcement of Awards", p. 5, (note: Intel Corporation is the current sponsor of this event).
  13. ^ Mitchell's modular LED x-y (horizontally and vertically digitally scanned array system) was cited in the 29th International Science and Engineering Exposition "book of abstracts", p. 97, published by the "Science Service", Washington D.C. May 1978.
  14. ^ Mitchell continued to display the fully operational prototype including May 6 at the University of Northern Iowa Industrial Arts event capturing another first award. Additional recognition included letters from Iowa senators John Culver and Dick Clark, the Air Force, the Army, college and university letters acknowledging the Westinghouse STS paper entry.
  15. ^ says, Sylvain Muckenhirn (ngày 29 tháng 5 năm 2019). “MicroLEDs: The Next Revolution In Displays?”. Semiconductor Engineering (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Bài học từ chiếc túi hàng hiệu
Bài học từ chiếc túi hàng hiệu
Mình sở hữu chiếc túi designer bag đầu tiên cách đây vài năm, lúc mình mới đi du học. Để mà nói thì túi hàng hiệu là một trong những ''life goals" của mình đặt ra khi còn bé
Review Phim: The Whole Truth - Lỗ Sâu Sự Thật (2021)
Review Phim: The Whole Truth - Lỗ Sâu Sự Thật (2021)
The Whole Truth kể về một câu chuyện của 2 chị em Pim và Putt. Sau khi mẹ ruột bị tai nạn xe hơi phải nhập viện
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] (Quỷ lớn) Tensura
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] (Quỷ lớn) Tensura
Trái ngược với Tử quỷ tộc [Goblin] (Quỷ nhỏ), đây là chủng tộc mạnh mẽ nhất trong Đại sâm lâm Jura (tính đến thời điểm trước khi tên trai tân nào đó bị chuyển sinh đến đây).