Mã Công 馬公市 Makō, Makung | |
---|---|
— Huyện hạt thị — | |
Thành phố Mã Công thuộc huyện Bành Hồ | |
Vị trí tại Đài Loan | |
Quốc gia | Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) |
Huyện | Bành Hồ |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 33,9918 km2 (131,243 mi2) |
Dân số (February 2023) | |
• Tổng cộng | 63.729 |
• Mật độ | 0,19/km2 (0,49/mi2) |
Múi giờ | Giờ Đài Loan |
Mã bưu chính | 880 |
Trang web | www.mkcity.gov.tw |
Mã Công (tiếng Trung: 馬公; bính âm: Mǎgōng; Wade–Giles: Ma-kung) là huyện lỵ của huyện Bành Hồ, Đài Loan. Mã Công nằm trên phía tây của đảo chính Bành Hồ. Mã Công có sân bay nội địa là sân bay Mã Công. Thành phố là trung tâm kinh tế, văn hóa và giao thông của Bành Hồ, phía đông giáo với hương Hồ Tây. Thành phố có diện tích khoảng 34 km2, nhân khẩu khoảng hơn 60 nghìn người.
Khu vực Mã Công nằm ở phía tây đảo chính Bành Hồ (đảo Đại Sơn), thời xưa gọi là " đảo Ma Cung" (媽宮嶼), từ xưa đã là cảng tránh gió. Ngay trong các văn bản thời Minh-Thanh, xuất hiện các tên "Nương Cung" 娘宮, "Ma Áo" 媽澳, "Ma Tổ Đài" 媽祖臺, "Tổ Ma Cung" 祖媽宮, "Mã Tổ Áo" 馬祖澳, trong đó "Ma Cung" là thường thấy nhất. Do vào thời Vạn Lịch triều Minh trên đảo có cung Thiên Hậu thờ Ma Tổ, nên "Ma Cung" và tín ngưỡng Ma Tổ có liên quan, sau đó mở rộng từ một ngôi miếu địa phương thành khái niệm địa danh địa phương.[1]:143
Năm 1920, Tổng đốc Đài Loan Den Kenjirō thúc đẩy cải tiến khu vực hành chính, thính Bành Hồ (Hōko) cũ được chuyển thành quận Bành Hồ, "Ma Cung" thuộc quận Bành Hồ được phỏng theo âm mà đổi thành "Mã Công" (Makō), sử dụng cho đến nay.[1]:143[2]:98-100
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thành phố Mã Công luôn có những tiếng nói khôi phục tên gọi cũ, nhiều người cho rằng cái tên "Ma Cung" mang ý nghĩa tiếp nối lịch sử của thành phố, cội nguồn văn hóa của quê hương.[3]
Sau khi triều Thanh chiếm được Bành Hồ vào năm 1684[4], phố Ma Cung do nằm gần bến cảng nên thường có quân đội đóng trú, tàu thuyền có thể neo đậu quanh năm, hoạt động thương nghiệp diễn ra thường xuyên, dần phát triển thành một phố thị náo nhiệt, đến thời Càn Long trở thành "bảy phố một chợ". Hoạt động phố thị đa phần do quan binh kiểm soát, có khoảng bảy doanh trại đóng tại Bành Hồ, mỗi nơi đều có miếu quán và nhà bếp phân bố xung quanh Mã Cung, tạo ra cảnh tượng quân dân hỗn loạn.[5]:57-62 Sau thời Đạo Quang, giáo dục và thương nghiệp địa phương dần nở rộ.[5]:127-129 Đến những năm Quang Tự, Ma Cung phát triển đến quy mô "mười phố hai chợ".[5]
Khu vực tân cảng bên trong thành Ma Cung bao gồm "Đông Giáp, "Nam Giáp" và "Bắc Giáp", khi đó được gọi là "Ma Cung Tam Giáp"[6] Vào khoảng thời Đạo Quang (1821-1850), Ma Cung chỉ có hai khu "Đông Giáp" (khu sở quan) và "Nam Giáp" (khu bến cảng) hợp thành.[5] Đông Giáp vì có quan hệ mật thiết với chính quyền nên từ lâu đã thờ Huyền Thiên Thượng Đế, vị thần mang sắc thái quân sự này là trung tâm tín ngưỡng của khu. Nam Giáp ban đầu gồm nửa phía tây của Ma Cung, được tập hợp thành tổ chức Thần Minh hội. Đến năm 1864, Hải Linh điện được khánh thành, xác lập Nam Giáp thành một vòng tròn thờ cúng hoặc sinh hoạt độc lập[7];vì việc xây dựng Hải Linh điện hoàn toàn do dân gian tài trợ, nó cũng trở thành biểu trưng cho sự trỗi dậy của thế lực dân gian.[5]
Khu định cư "Bắc Giáp" được hình thành muộn hơn một chút, vào khoảng cuối thời nhà Thanh mới có tổ chức Thần Minh hội thờ cúng "Châu Phủ vương da"[8], cho đến năm 1899 thời Nhật Bản cai trị mới chính thức khởi công miếu Giác Đầu của Bắc Giáp (Bắc Giáp Bắc Thần cung).[5] Tóm lại, khu định cư Ma Cung Tam Giáp, vào khoảng năm Quang Tự thứ mười ba (1887), khi Ngô Hoành Lạc được lệnh xây dựng thành thì đã tồn tại.[6][9]:56-57
Năm 1981, bãi cạn ở phía đông bắc của cảng Mã Công được khai hoang từ biển (khu vực phía nam đường Tân Sinh ngày nay), và vào năm 1993, việc xây dựng cảng cá Mã Công thứ ba ở khu vực nói trên đã hoàn thành. Vào năm 2020, khởi đầu quy hoạch để lấp biển khu vực bãi cạn Án Sơn và phía bắc của đảo Trắc Thiên để giải quyết vấn đề tàu du lịch lớn không thể neo đậu[10]
Năm | Khu hành chính |
1920~1926 | nhai Makō, quận Hōko, châu Takao |
1926~1945 | nhai Makō, chi thính Makō, thính Hōko |
1945~1946 | trấn Mã Công, khu Mã Công, huyện Bành Hồ |
1946~1981 | trấn Mã Công, huyện Bành Hồ |
1981~ | thành phố Mã Công, huyện Bành Hồ |
Mã Công có khí hậu cận nhiệt đới ẩm rất ấm theo hệ thống Köppen. Do ảnh hưởng của biển, sự thay đổi nhiệt độ trong ngày rất thấp, nhưng mặc dù nằm ngay trên ranh giới với vùng nhiệt đới và có nhiệt độ thấp nhất là 15 °C (59 °F) vào mùa đông, nó ít khi có khí hậu như vậy. Đây là nhờ ảnh hưởng của đại lục châu Á mát mẻ và gió thịnh hành vào mùa đông. Kết quả là, tháng lạnh nhất ở dưới đường đẳng nhiệt 18 °C (64 °F). Vào mùa hè, Mã Công nhận được mưa gió mùa với nhiệt độ vừa phải nhưng nóng. Trong khi buổi chiều thường ở nhiệt độ thấp 30 °C, thì ban đêm vẫn ở mức trên 25 °C (77 °F) trong vài tháng. Thành phố khô hơn nhiều khu vực lục địa của Đài Loan, mặc dù trời vẫn thường xuyên có mây.
Dữ liệu khí hậu của Magong City (1981–2010) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 25.5 (77.9) |
27.8 (82.0) |
30.1 (86.2) |
35.3 (95.5) |
38.9 (102.0) |
39.5 (103.1) |
40.0 (104.0) |
39.8 (103.6) |
39.2 (102.6) |
37.6 (99.7) |
34.4 (93.9) |
30.0 (86.0) |
40.0 (104.0) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 19.3 (66.7) |
19.6 (67.3) |
22.4 (72.3) |
26.0 (78.8) |
28.8 (83.8) |
30.6 (87.1) |
32.0 (89.6) |
31.8 (89.2) |
30.7 (87.3) |
28.1 (82.6) |
24.8 (76.6) |
21.1 (70.0) |
26.3 (79.3) |
Trung bình ngày °C (°F) | 16.9 (62.4) |
17.1 (62.8) |
19.5 (67.1) |
23.0 (73.4) |
25.7 (78.3) |
27.6 (81.7) |
28.7 (83.7) |
28.6 (83.5) |
27.8 (82.0) |
25.4 (77.7) |
22.4 (72.3) |
18.9 (66.0) |
23.5 (74.2) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 15.4 (59.7) |
15.4 (59.7) |
17.4 (63.3) |
20.9 (69.6) |
23.7 (74.7) |
25.6 (78.1) |
26.6 (79.9) |
26.5 (79.7) |
25.9 (78.6) |
23.9 (75.0) |
20.9 (69.6) |
17.4 (63.3) |
21.6 (70.9) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | 4.4 (39.9) |
5.3 (41.5) |
8.2 (46.8) |
11.1 (52.0) |
15.4 (59.7) |
20.3 (68.5) |
22.7 (72.9) |
22.6 (72.7) |
21.8 (71.2) |
19.6 (67.3) |
14.3 (57.7) |
7.1 (44.8) |
4.4 (39.9) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 21.9 (0.86) |
50.2 (1.98) |
52.9 (2.08) |
92.4 (3.64) |
123.2 (4.85) |
164.1 (6.46) |
131.6 (5.18) |
170.8 (6.72) |
74.2 (2.92) |
26.1 (1.03) |
20.1 (0.79) |
23.5 (0.93) |
951.0 (37.44) |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 80.5 | 82.4 | 83.1 | 83.4 | 84.5 | 86.6 | 85.1 | 85.5 | 81.2 | 78.1 | 78.0 | 78.7 | 82.3 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 112.9 | 96.7 | 124.7 | 157.2 | 172.5 | 199.6 | 260.8 | 240.1 | 225.3 | 183.9 | 131.1 | 117.3 | 2.022,1 |
Nguồn: [11] |
Năm | Số dân | ±% |
---|---|---|
1981 | 55.567 | — |
1986 | 55.091 | −0.9% |
1991 | 53.531 | −2.8% |
1996 | 52.218 | −2.5% |
2001 | 53.132 | +1.8% |
2006 | 53.942 | +1.5% |
2011 | 57.468 | +6.5% |
2016 | 61.740 | +7.4% |
2021 | 63.289 | +2.5% |
來源:“內政部統計月報-各鄉鎮市區人口數”. 中華民國內政部. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status= ) (trợ giúp) |
Theo thống kê từ cơ quan nội chính, đến cuối năm 2022, thành phố Mã Công có khoảng 26 nghìn hộ, dân số khoảng 64 nghìn người và mật độ dân số khoảng 1.873 người trên mỗi km vuông. Đây là khu hành chính có dân số lớn nhất và mật độ dân số cao nhất ở huyện Bành Hồ,[12] đây cũng là khu hành chính duy nhất của huyện có mật độ dân số hơn 1.000 người trên mỗi km vuông.[13] Các lí có dân số lớn nhất và ít nhất trong thành phố lần lượt là lí Tây Vệ và lí Thũng Bàn. Đến cuối năm 2022, dân số của hai lí này lần lượt là 7.257 và 392. Trong số đó, lí Tây Vệ cũng là thôn/lí đông dân nhất ở huyện Bành Hồ, và nó cùng với lí Triêu Dương, lí Quang Vinh, lí Đông Văn, lí Tây Văn là năm thôn/lí đông dân nhất Bành Hồ.[12]
Biểu đồ hiện đang tạm thời không khả dụng do vấn đề kĩ thuật. |
Thành phố Mã Công có 34 làng đô thị (里 lý):
Tiểu học Quốc dân Văn Quang (澎湖縣馬公市文光國民小學)
|dead-url=
(gợi ý |url-status=
) (trợ giúp)
|dead-url=
(gợi ý |url-status=
) (trợ giúp)
|dead-url=
(gợi ý |url-status=
) (trợ giúp)
|dead-url=
(gợi ý |url-status=
) (trợ giúp)
|dead-url=
(gợi ý |url-status=
) (trợ giúp)