Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia

Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (KUFNS)
រណសិរ្សសាមគ្គីសង្គ្រោះជាតិកម្ពុជា
Front Uni National pour le Salut du Kampuchéa (FUNSK)
Thời điểm hoạt động2 tháng 12 năm 1978
Khu vực hoạt độngCampuchia
Hệ tư tưởngChủ nghĩa cộng sản
chủ nghĩa Marx–Lenin
Các vụ tấn công đáng chú ýViệt Nam đưa quân vào Campuchia
Tình trạngChuyển đổi thành Mặt trận Đoàn kết Phát triển Tổ quốc Campuchia (2006 đến hiện tại)
KUFNS đã hồi sinh lá cờ được thông qua bởi Khmer Issarak trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tuyên bố đó là lá cờ của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia.[1]
Lãnh đạo Hiệp hội Phụ nữ Cách mạng Campuchia (KRWA) Nuth Kim Lay và Res Sivanna tại Đông Đức tại Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Đức - Đại hội năm 1987

Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (hay Khmer) ( tiếng Khmer: រណសិរ្សសាមគ្គីសង្គ្រោះជាតិកម្ពុជា; KUFNS), thường được gọi đơn giản là Mặt trận Cứu nước hoặc bằng từ viết tắt tiếng Pháp FUNSK (Front Uni National pour le Salut du Kampuchéa), là hạt nhân của một chế độ mới của Campuchia sẽ lật đổ Khmer Đỏ và sau đó thành lập Cộng hòa Nhân dân Campuchia (PRK).[2]

Đài tưởng niệm ngày 2 tháng 12 để kỷ niệm thành lập Mặt trận Đoàn kết vì sự phát triển của Tổ quốc Campuchia (SFDCM).

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ chức thành lập ngày 2 tháng 12 năm 1978 tại tỉnh Kratié gần biên giới với Việt Nam tại một cuộc họp của bảy mươi người Campuchia bất đồng chính kiến ​​quyết tâm lật đổ chính quyền Pol Pot. Heng Samrin được bầu chọn là lãnh đạo của mặt trận và trong vài tuần, ảnh hưởng của tổ chức lan rộng ra cả hai bờ biên giới.[3] Mặt trận là một tổ chức chính trị quân sự Campuchia hợp pháp hóa việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia, khiến chính quyền Pol Pot sụp đổ. Nó mang lại nền tảng của nhà nước mới mang tên Cộng hòa Nhân dân Campuchia sau đó tái thiết đất nước tan vỡ và tuyệt vọng. Tổ chức này trải qua nhiều lần thay đổi tên khác nhau vì nó đã mở rộng và thích nghi với thực tế lịch sử khác nhau ở Campuchia.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Margaret Slocomb, The People's Republic of Kampuchea, 1979-1989: The revolution after Pol Pot ISBN 978-974-9575-34-5
  2. ^ David P. Chandler, A history of Cambodia, Westview Press; Allen & Unwin, Boulder, Sydney, 1992
  3. ^ Ben Kiernan, The Pol Pot Regime: Race, Power and Genocide in Cambodia under the Khmer Rouge, 1975-1979. Page 442
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mình học được gì sau cú
Mình học được gì sau cú "big short" bay 6 tháng lương?
Nếu bạn hỏi: thị trường tài sản số có nhiều cơ hội hay không. Mình sẽ mạnh dạn trả lời có
Sơ lược về Đế quốc Phương Đông trong Tensura
Sơ lược về Đế quốc Phương Đông trong Tensura
Đế quốc phương Đông (Eastern Empire), tên chính thức là Nasca Namrium Ulmeria United Eastern Empire
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Khi Truth và Illusion tạo ra Goblin Slayer, số skill points của GS bình thường, không trội cũng không kém, chỉ số Vitality (sức khỏe) tốt, không bệnh tật, không di chứng, hay có vấn đề về sức khỏe
Vài câu tỏ tình hàng tuyển
Vài câu tỏ tình hàng tuyển
Những lời tỏ tình với đôi chút lãn mạn và một bầu trời yêu thương