Phnôm Pênh ភ្នំពេញ Nam Vang | |
---|---|
— Thủ đô và đô thị tự trị — | |
Tên hiệu:
| |
Vị trí của Phnôm Pênh | |
Tọa độ: 11°33′B 104°55′Đ / 11,55°B 104,917°Đ | |
Quốc gia | Campuchia |
Định cư | 1372 |
Trở thành thủ đô | 1865 |
Số đơn vị hành chính | 12 quận |
Chính quyền | |
• Kiểu | Khu tự quản |
• Đô trưởng | H.E. Pasocheat Voung កែប ជុគិមា |
• Các Phó Đô trưởng | H.E. Than Sina, H.E. Map Sarin, H.E. Seng Tong |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 679 km2 (262 mi2) |
Độ cao | 11,89 m (39,01 ft) |
Dân số (2019)[1] | |
• Tổng cộng | 2,281,951 |
• Mật độ | 3,400/km2 (8,700/mi2) |
Tên cư dân | Phnom Penher |
Mã điện thoại | 023 |
Mã ISO 3166 | KH-12 |
Thành phố kết nghĩa | Thượng Hải, Luân Đôn, Providence, Long Beach, Viêng Chăn, Băng Cốc, Trùng Khánh, Bắc Kinh, Thành phố Hồ Chí Minh, Côn Minh, Kitakyūshū |
Website | Phnom Penh Website |
Phnôm Pênh hay Phnom Penh (tiếng Khmer: ភ្ន៓ពេញ; chuyển tự: Phnum Pénh; IPA: [pʰnum peːɲ]), trong tiếng Việt còn gọi là Nam Vang, Nam Vinh,[2] hay Kim Biên,[3] là thành phố lớn nhất và là thủ đô của Vương quốc Campuchia. Đây cũng là thủ phủ của thành phố tự trị Phnôm Pênh. Từng được gọi là "Hòn ngọc châu Á" thập niên 1920, Nam Vang cùng với Xiêm Riệp và Sihanoukville, là những thành phố thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế nhất của Campuchia. Thành phố này có nhiều toà nhà mang ảnh hưởng kiến trúc Pháp cùng nhiều công trình đặc sắc của kiến trúc Khmer. Với dân số là 2,2 triệu người (2011), thành phố này là trung tâm chính trị, văn hóa, thương mại của Campuchia.
Địa danh này xuất phát từ Wat Phnom Daun Penh (hay Wat Phnom, nghĩa là "Chùa trên đồi"), xây từ năm 1373 để thờ 5 pho tượng Phật. Đồi ở đây là một gò đất nhân tạo, đắp cao 27 mét. Tên quả đồi lấy từ nhân vật Daun Penh (Bà Pênh), tương truyền là một góa phụ giàu có. Phnôm Pênh còn có nghĩa là "vùng đất của Bà Pênh".
Phnôm Pênh một thời còn có tên là Krong Chaktomuk có nghĩa "Thành phố 4 mặt" do thành phố nằm trên ngã tư của mấy con sông Mekong, Bassac, sông Tonlé Sap chạy ngang tạo thành 4 ngả sông. Krong Chaktomuk còn là cách gọi tắt sắc phong vua Ponhea Yat đặt cho thị trấn này là "Chaktomuk Mongkol Sakal Kampuchea Thipadei Sereythor Inthabot Borei Roth Reach Seima Maha Nokor".
Đầu tiên ghi lại một thế kỷ sau khi nó được cho là đã diễn ra, huyền thoại về việc thành lập Phnom Penh kể về một người phụ nữ địa phương, Penh (thường được gọi là Daun Penh ("Bà ngoại" hoặc "Bà già Penh") bằng tiếng Khmer), sống ở Chaktomuk, thuộc Phnom Penh ngày nay. Đó là vào cuối thế kỷ 14, khi ấy thủ đô Khmer vẫn còn ở Angkor gần Xiêm Riệp, cách Chaktomuk 350 km (217 mi) về phía bắc. Khi thu thập củi dọc theo bờ sông, bà Penh đã đuổi theo một cây koki nổi trên sông và đánh bắt nó từ dưới nước. Bên trong cái cây, bà tìm thấy bốn bức tượng Phật và một trong những Vishnu.
Phát hiện này được coi là một phước lành thiêng liêng, và với một số dấu hiệu cho thấy kinh đô của đế quốc Khmer đã được dời đến Phnom Penh từ Angkor. Để xây dựng những vật linh thiêng mới, Penh đã dựng lên một ngọn đồi nhỏ trên bờ phía tây của sông Tonle Sap và để nó trong một ngôi đền, bây giờ được gọi là Wat Phnom ở phía bắc của trung tâm Phnom Penh. "Phnom" là tiếng Khmer cho "đồi" và đồi của Penh lấy tên của người sáng lập, và khu vực xung quanh nó được biết đến sau ngọn đồi.
Phnôm Pênh chính thức được chọn làm kinh đô của Campuchia từ thế kỷ 15 dưới triều vua Ponhea Yat khi kinh đô Angkor Thom bị quân Xiêm chiếm mất. Triều đình phải bỏ vùng Tây Bắc rút về Đông Nam lấy Phnôm Pênh làm bản doanh mới. Ngày nay trong số những mộ tháp phía sau Wat Phnom là tháp chứa di cốt Ponhea Yat cùng các hoàng thân. Chứng tích khác từ thời Angkor vàng son còn lưu lại là mấy pho tượng Phật ở Wat Phnom. Dù vậy mãi đến năm 1866 triều vua Norodom I thì Phnôm Pênh mới trở thành doanh sở dài lâu của người Khmer. Cung điện vua Khmer được xây vào thời kỳ này, đánh dấu thời điểm khi ngôi làng nhỏ dần chuyển mình thành chốn đô hội.
Khi người Pháp sang lập nền Bảo hộ trên xứ Campuchia thì họ cũng cho đào kênh rạch, đắp đường sá, mở bến cảng thông thương. Đến thập niên 1920 thì cảnh quan đẹp đẽ của Phnôm Pênh đã khiến nơi này có mệnh danh là "Hòn ngọc châu Á". Trong 40 năm kế tiếp thành phố tiếp tục mở mang giao thông, nối đường sắt với hải cảng Sihanoukville và mở Sân bay Quốc tế Pochentong.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, lực lượng vũ trang của phe cộng sản (Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) lấy đất Campuchia làm căn cứ và khu an toàn để đánh Việt Nam Cộng hòa và ủng hộ Khmer Đỏ, gây xáo trộn và bất an khiến hàng ngàn người Campuchia phải lánh miền quê, tản cư vào thành phố để tránh giao tranh. Chiến cuộc lan rộng. Đến năm 1975 thì dân số Phnôm Pênh đã lên 2 triệu dân, phản ánh tình hình bất an ở nông thôn. Ngày 17 tháng 4 trùng ngày tết Khmer, thủ đô nước Cộng hòa Khmer thất thủ; quân Khmer Đỏ tiến chiếm được Phnôm Pênh. Chế độ này thi hành chính sách giải thể phố xá, dồn dân thành thị về miền quê lao động sản xuất. Thủ lĩnh Pol Pot dùng trường Trung học Chao Ponhea Yat thành nhà giam tra tấn và thủ tiêu mọi thành phần liên quan đến chính thể Cộng hòa Khmer cùng giới trí thức, chuyên môn. Nơi đó sau năm 1979 trở thành Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng cùng với Choeung Ek (Cánh Đồng Chết), cách Phnôm Pênh 15 km, nay là 2 nơi tưởng niệm những nạn nhân bị chế độ Khmer Đỏ sát hại.
Năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiến chiếm Phnôm Pênh, đánh bại Khmer Đỏ. Dân chúng sau đó mới dần hồi cư về thành phố. Phnôm Pênh lại khởi sắc, xây dựng lại. Đầu tư nước ngoài và ngoại viện trong những năm liên tiếp giúp chấn chỉnh lại thành phố. Một giai đoạn tái thiết bắt đầu, được thúc đẩy bởi sự ổn định liên tục của chính phủ, thu hút đầu tư nước ngoài mới và viện trợ của các nước bao gồm Pháp, Úc và Nhật Bản. Các khoản vay được thực hiện từ Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng Thế giới để phục hồi nguồn cung cấp nước sạch, đường sá và cơ sở hạ tầng khác. Dân số tăng đều từ 826.000 (1998) lên 1.3 triệu (2008).
Phnôm Pênh tọa lạc tại vị trí trung nam Campuchia, chỗ hợp lưu của sông Tonlé Sap và sông Mekong. Những con sông này cung cấp nước ngọt và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác cho thành phố. Phnom Penh và các khu vực xung quanh bao gồm một khu vực đồng bằng ngập lụt điển hình của Campuchia. Mặc dù Phnom Penh nằm ở độ cao 11,89 mét (39 ft) so với sông, lũ lụt lại được xem là một vấn đề, và đôi khi nước sông tràn bờ.
Tọa độ: 11°33′00″B 104°55′00″Đ / 11,55°B 104,91667°Đ (11°33' North, 104°55' East). Thành phố có diện tích 678,46 km vuông (262 sq mi), với 11.401 ha (28.172 mẫu Anh) trong đô thị và 26.106 ha (64.509 mẫu Anh) đường sá. Đất nông nghiệp trong đô thị có diện tích 34.685 km2 (13 dặm vuông) với 1.476 km2 (365 mẫu Anh) dưới thủy lợi.
Phnom Penh có khí hậu xavan (phân loại khí hậu Köppen Aw). Khí hậu nhiệt đới gần giống vùng Nam Bộ của Việt Nam khi nóng quanh năm và biên độ dao động thấp. Nhiệt độ thường dao động từ 22 đến 35 °C (72 đến 95 °F) và thời tiết phụ thuộc vào gió mùa nhiệt đới. Gió mùa tây nam thổi vào đất liền mang gió ẩm từ vịnh Thái Lan và Ấn Độ Dương từ tháng 5 đến tháng 10. Gió mùa đông bắc mở ra vào mùa khô, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3. Thành phố có lượng mưa lớn nhất từ tháng 9 đến tháng 10 và thời kỳ khô hạn nhất là tháng 1 và tháng 2.
Thành phố có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiệt độ cao kèm theo độ ẩm cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 khi nhiệt độ có thể giảm xuống 22 °C (72 °F). Nhưng nhiệt độ có thể lên đến 40 °C (104 °F) trong tháng Tư.
Dữ liệu khí hậu của Phnom Penh | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 36.1 (97.0) |
38.1 (100.6) |
40.0 (104.0) |
40.5 (104.9) |
40.0 (104.0) |
39.2 (102.6) |
37.2 (99.0) |
37.8 (100.0) |
35.5 (95.9) |
36.1 (97.0) |
34.4 (93.9) |
37.2 (99.0) |
40.5 (104.9) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 31.6 (88.9) |
33.2 (91.8) |
34.6 (94.3) |
35.3 (95.5) |
34.8 (94.6) |
33.8 (92.8) |
32.9 (91.2) |
32.7 (90.9) |
32.2 (90.0) |
31.4 (88.5) |
31.1 (88.0) |
30.8 (87.4) |
32.9 (91.2) |
Trung bình ngày °C (°F) | 26.6 (79.9) |
28.0 (82.4) |
29.4 (84.9) |
30.2 (86.4) |
30.0 (86.0) |
29.2 (84.6) |
28.7 (83.7) |
28.5 (83.3) |
28.2 (82.8) |
27.2 (81.0) |
27.1 (80.8) |
26.3 (79.3) |
28.3 (82.9) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 21.8 (71.2) |
22.8 (73.0) |
24.3 (75.7) |
25.5 (77.9) |
25.6 (78.1) |
24.9 (76.8) |
24.8 (76.6) |
24.6 (76.3) |
24.4 (75.9) |
24.2 (75.6) |
23.2 (73.8) |
21.9 (71.4) |
24.0 (75.2) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | 12.8 (55.0) |
15.2 (59.4) |
19.0 (66.2) |
17.8 (64.0) |
20.6 (69.1) |
21.2 (70.2) |
20.1 (68.2) |
20.0 (68.0) |
21.1 (70.0) |
17.2 (63.0) |
16.7 (62.1) |
14.4 (57.9) |
12.8 (55.0) |
Lượng mưa trung bình mm (inches) | 12.1 (0.48) |
6.6 (0.26) |
34.8 (1.37) |
78.8 (3.10) |
118.2 (4.65) |
145.0 (5.71) |
162.1 (6.38) |
182.7 (7.19) |
270.9 (10.67) |
248.1 (9.77) |
120.5 (4.74) |
32.1 (1.26) |
1.411,9 (55.58) |
Số ngày mưa trung bình (≥ 0.1 mm) | 1.2 | 1.1 | 3.4 | 6.8 | 15.9 | 17.0 | 18.1 | 18.3 | 21.5 | 19.3 | 10.2 | 4.5 | 137.3 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 73 | 71 | 71 | 73 | 77 | 78 | 80 | 81 | 84 | 84 | 78 | 73 | 77 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 260 | 226 | 267 | 240 | 202 | 192 | 143 | 174 | 129 | 202 | 213 | 242 | 2.490 |
Nguồn 1: Deutscher Wetterdienst[4] | |||||||||||||
Nguồn 2: Danish Meteorological Institute (nắng, 1931–1960)[5] |
Thành phố Phnôm Pênh tương đương đơn vị cấp tỉnh, có 12 quận và 98 phường.
Năm | Số dân | ±% năm |
---|---|---|
1950 | 334.000 | — |
1960 | 398.000 | +1.77% |
1970 | 457.000 | +1.39% |
1975 | 370.000 | −4.14% |
1978 | 32.000 | −55.78% |
1980 | 189.000 | +143.03% |
1985 | 351.000 | +13.18% |
1990 | 634.000 | +12.55% |
1995 | 925.000 | +7.85% |
2000 | 1.284.000 | +6.78% |
2005 | 1.677.000 | +5.49% |
2010 | 2.101.725 | +4.62% |
2019 | 2.281.951 | +0.92% |
Tính đến năm 2008, dân số Phnom Penh là 2.009.264 người, với tổng mật độ dân số là 5,358 người / km2 (13,877 / sq mi) trong khu vực nội ô 678,46 km vuông (262 dặm vuông). Tốc độ tăng dân số của thành phố là 3,92%. Khu vực nội ô đã tăng gấp bốn lần kể từ năm 1979, và khu vực đô thị sẽ tiếp tục mở rộng để hỗ trợ dân số và nền kinh tế ngày càng tăng của thành phố. Dân số của Phnom Penh dự kiến sẽ tăng lên 3 triệu vào cuối năm 2016.
Phnom Penh là nơi sinh sống chủ yếu của người Campuchia (hoặc người Khmer) - chiếm 90% dân số của thành phố. Có rất nhiều nhóm thiểu số người Hoa, người Việt, và các nhóm dân tộc thiểu số khác là người Thái Lan, Budong, người M'Nông, Kuy, Chong, và người Chăm. Tôn giáo nhà nước là Phật giáo Nam Tông. Hơn 90% người dân ở Phnom Penh là Phật tử. Người Chăm đã sùng bái đạo Hồi trong hàng trăm năm. Từ năm 1993, cũng đã có sự gia tăng trong việc sùng bái Kitô giáo mặc dù thực tế đã bị xóa sổ sau năm 1975 khi Khmer Đỏ tiếp quản. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Khmer, nhưng tiếng Anh và tiếng Pháp được sử dụng rộng rãi trong thành phố.
Số lượng cư dân khu ổ chuột vào cuối năm 2012 là 105.771 người, so với 85.807 vào đầu năm 2012.
Phnom Penh là trung tâm kinh tế của Campuchia khi nó chiếm một phần lớn nền kinh tế nước này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong những năm gần đây đã gây ra một sự bùng nổ kinh tế ở Phnom Penh, với các khách sạn, nhà hàng, quán bar, nhà cao tầng và các tòa nhà dân cư mọc quanh thành phố.
Nền kinh tế chính dựa trên các lợi ích thương mại như hàng may mặc, kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong vài năm qua, hoạt động kinh doanh bất động sản đang bùng nổ, với giá bất động sản tăng nhanh chóng. Du lịch cũng là một đóng góp lớn trong thủ đô như nhiều trung tâm mua sắm và thương mại mở, làm cho Phnom Penh một trong những điểm đến du lịch lớn trong cả nước cùng với Xiêm Riệp và Sihanoukville. Theo Hội đồng Du lịch và Du lịch Thế giới, du lịch chiếm 17,5% (2,053 triệu USD) GDP của Campuchia trong năm 2009 và chiếm 13,7% tổng số việc làm. Một trong những khu vực nổi tiếng nhất ở Phnom Penh cho khách du lịch là Sisowath Quay, bên cạnh sông Tonle Sap. Sisowath Quay là một dải đường dài 3 dặm bao gồm các nhà hàng, quán bar và khách sạn. Dự án phát triển đô thị mới trị giá 2,6 tỷ đô la, Camko City, có nghĩa là thúc đẩy cảnh quan thành phố. Cục Nội vụ đô thị Phnom Penh có kế hoạch mở rộng và xây dựng cơ sở hạ tầng mới để phù hợp với dân số và nền kinh tế ngày càng tăng. Các tòa nhà cao tầng sẽ được xây dựng tại lối vào của thành phố và gần các hồ và bờ sông. Hơn nữa, các con đường mới, kênh đào và hệ thống đường sắt sẽ được sử dụng để kết nối Camko City và Phnom Penh. Các dự án khác bao gồm:
Với sự phát triển kinh tế bùng nổ từ những năm 1990, các hệ thống bán lẻ mới đã mở ra mang phong cách phương Tây như Trung tâm mua sắm Sorya, City Mall, Aeon Mall và Parkson Mall. Nhiều thương hiệu quốc tế đã mở ra như Mango, Salvatore Ferragamo, Montagut, Hugo Boss, Padini. Phnom Penh là trung tâm của nhiều ngân hàng tài chính quốc tế và các trung tâm mua sắm ở khu vực trung tâm Đông Nam Á gần đây.
Tòa nhà chọc trời cao nhất ở Phnom Penh là Vattanac Capital Tower ở độ cao 188 mét (617 ft), thống trị đường chân trời của Phnom Penh với tòa nhà chọc trời hàng xóm Canadia Tower (Tháp OCIC). Tháp đã được đứng đầu trong tháng 5 năm 2012 và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2012. Những tòa nhà hiện đại đã được xây dựng trên toàn thành phố, không tập trung ở bất kỳ một khu vực cụ thể.
Phnom Penh cũng được biết đến với ảnh hưởng của nó đối với kiến trúc Khmer mới. Ẩm thực Phnom Penh được biết đến với món hủ tiếu Phnom Penh, sự biến đổi của nó trên món phở, một món ăn có sẵn ở các quán cà phê sang trọng cũng như các quán cà phê 'đường phố'. Thành phố này vừa là trung tâm kinh tế và văn hóa của Campuchia.
Âm nhạc và nghệ thuật đang tạo nên một sự hồi sinh khắp Campuchia, đặc biệt là ở Phnom Penh. Phnom Penh hiện đang tổ chức một số sự kiện âm nhạc trên toàn thành phố. Các ban nhạc 'Indie' (những người không có nhà tài trợ của công ty) đã phát triển về số lượng.
Hai bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất trong thành phố là Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh, là bảo tàng khảo cổ và lịch sử hàng đầu của đất nước, và Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng, một nơi từng là nhà tù của chính quyền Khmer Đỏ.
Kiến trúc lâu đời nhất ở Phnom Penh là đền Wat Phnom, đã xuất hiện từ những ngày sáng lập của thành phố, được xây dựng vào năm 1373. Các điểm du lịch chính là Vương cung Campuchia với Chùa Bạc và Bảo tàng Quốc gia, được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa Pháp vào cuối thế kỷ 19. Phong cách Khmer đã lưu trữ một bộ sưu tập lớn các cổ vật Khmer trong thành phố. Tượng đài Độc lập Phnôm Pênh (Khmer: Vimean Akareach), mặc dù xây từ những năm 1950, cũng được xây dựng theo phong cách Khmer cổ đại.
Người Pháp, là những bậc thầy thuộc địa từ thế kỷ 19 đến thập niên 1940, cũng để lại dấu ấn của họ tại Phnom Penh, với nhiều biệt thự thời thuộc địa, nhà thờ Pháp, đại lộ và chợ Art Deco, Phsar Thom Thmei. Một địa danh nổi tiếng của thời kỳ thuộc địa là Hotel Le Royal.
Bắt đầu với sự độc lập từ Pháp vào những năm 1950 và kéo dài cho đến thời Khmer Đỏ vào những năm 1970, Phnom Penh trải qua sự phát triển to lớn của thủ đô của một quốc gia mới độc lập. Vua Norodom Sihanouk háo hức trình bày một phong cách kiến trúc mới và do đó thúc đẩy quá trình xây dựng đất nước. Một kỷ nguyên vàng mới của kiến trúc đã diễn ra, với nhiều dự án và các kiến trúc sư trẻ người Khmer, thường được đào tạo ở Pháp, được tạo cơ hội để tham gia thiết kế và xây dựng. Phong trào mới này được gọi là "Kiến trúc Khmer mới" và thường được đặc trưng bởi sự kết hợp của Bauhaus, Kiến trúc Hậu Hiện đại châu Âu và các yếu tố truyền thống từ Angkor. Kiến trúc sư nổi bật nhất là Vann Molyvann, người được đề cử làm kiến trúc sư quốc gia chính bởi nhà vua vào năm 1956. Molyvann đã tạo ra các tòa nhà mang tính bước ngoặt như Nhà hát quốc gia Preah Suramarit và tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng. Các kiến trúc sư khác đã giúp xây dựng Đại học Hoàng gia Khmer mới thành lập, Viện Ngoại ngữ và Trung tâm Thể thao Quốc gia. Với sự phát triển của tầng lớp trung lưu thượng lưu và kinh tế, các vùng ngoại ô mới được xây dựng vào những năm 1950 và 60. Mặc dù các tòa nhà này vẫn tồn tại trong thời kỳ Khmer Đỏ và cuộc nội chiến Campuchia, ngày nay chúng đang bị đe dọa do sự phát triển kinh tế và đầu cơ tài chính [cần dẫn nguồn]. Các biệt thự và khu vườn từ thời cận đại đang bị phá hủy và tái phát triển để xây dựng các công trình lớn hơn. Nhà hát quốc gia mang tính bước ngoặt của Molyvann đã bị gạt bỏ năm 2008. Một phong trào đang gia tăng ở Campuchia để bảo tồn các di sản hiện đại này. Các biệt thự cũ đôi khi được chuyển đổi thành khách sạn boutique, chẳng hạn như Knai Bang Chatt.
Các di tích và đài tưởng niệm liên quan đến nạn diệt chủng trong thời Khmer Đỏ vào những năm 1970 là Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng (một trường trung học cũ được sử dụng làm trại tập trung) và tọa lạc ở ngoại ô thành phố là Trung tâm diệt chủng Choeung Ek. Tượng đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia được Đảng Cộng sản Việt Nam cho xây dựng như một biểu tượng của tình hữu nghị Khmer-Việt trong cuối những năm 1970 sau sự tình nguyện hỗ trợ giải phóng Campuchia từ chính quyền Khmer Đỏ của quân đội nước này.
Dân số, đầu tư nước ngoài và phát triển đô thị ở Phnom Penh đã tăng đáng kể trong những năm 1990 và đầu những năm 2000. Sự tăng trưởng nhanh chóng dẫn đến cơ sở hạ tầng của thành phố bộc lộ những hạn chế rõ ràng (hệ thống thoát nước đặc biệt rất kém, và Phnom Penh thường xuyên bị lũ lụt trong mùa mưa) và nhu cầu về cả không gian dân cư và thương mại. Nhu cầu đồng thời về nhà ở và nhà ở thương mại và sự gia tăng đầu tư quốc tế đã dẫn đến việc chính quyền phải lập kế hoạch xây dựng một số thành phố vệ tinh. Thành phố lớn nhất trong số này là: Thành phố Quốc tế Grand Phnom Penh, Thành phố CamKo, Thành phố Đảo Kim Cương, Thị trấn Boeung Kak và Thành phố Chruy Cangva.
Ở vùng ngoại ô của thành phố, đất nông nghiệp đã được phát triển thành các nhà máy may và nhà ở cho các tầng lớp kinh tế thấp hơn và những khu di dời do sự phát triển mới ở trung tâm thành phố.
Bảo tàng Quốc gia Phnôm Pênh, được xây vào đầu những năm 1920s bởi George Groslier. | Vương cung Campuchia, xây vào năm 1860s đưới thời Norodom. | Hotel Le Royal, thành lập năm 1929 dưới thời vua Sisowath Monivong. | Một căn biệt thự thời thuộc địa ở Phnom Penh. |
Các điểm du lịch chính ở Phnom Penh:
Bên ngoài thành phố có:
Các môn võ thuật như Bokator, Pradal Serey (boxing kiểu Khmer) và môn đấu vật truyền thống của người Khmer có địa điểm ở Phnom Penh được theo dõi bởi những khán giả tận tâm. Campuchia đã ngày càng tham gia vào các môn thể thao hiện đại trong 30 năm qua. Cũng như phần còn lại của đất nước, bóng đá và võ thuật đặc biệt phổ biến. Các trận đối kháng sống còn và quyền anh tự do cũng trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây.
Địa điểm thể thao nổi bật nhất trong thành phố là Sân vận động Olympic Phnôm Pênh với sức chứa 50.000 chỗ ngồi, mặc dù đất nước này chưa bao giờ tổ chức một kỳ Thế vận hội Mùa hè do sự gián đoạn của cuộc nội chiến và chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ trong những năm 1970. Được xây dựng vào năm 1964, đây từng là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Campuchia cho đến năm 2023 thì chuyển sang sân vận động Quốc gia Morodok Techo làm sân nhà mới của họ. Khi hoàn thành, đây là một trong những sân vận động lớn nhất Đông Nam Á. Các trận đấu bóng chuyền, bóng rổ và taekwwondo thường được tổ chức tại sân vận động. Sân vận động từng bị đóng cửa năm 2000, nhưng được tái phát triển và mở cửa trở lại.
Trung tâm thể thao quốc gia Campuchia tổ chức các cuộc thi bơi lội, quyền anh và bóng chuyền. Các câu lạc bộ bóng đá địa phương đáng chú ý bao gồm Phnom Penh Crown FC, Khemara Keila FC và National Police Commissary FC.
Sân bay Quốc tế Pochentong là sân bay lớn nhất Campuchia có các chuyến bay quốc tế, trong đó có tuyến bay đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam.
Hãng hàng không quốc gia Campuchia, Cambodia Angkor Air, ra mắt vào năm 2009, có trụ sở tại Phnom Penh và có trung tâm chính tại đó, với trung tâm phụ tại Sân bay Quốc tế Angkor. Các chuyến bay từ Bangkok và Kuala Lumpur đến Phnom Penh được điều hành bởi AirAsia, một hãng hàng không giá rẻ của khu vực. Các hãng vận chuyển ngân sách khác bao gồm Jetstar Asia Airways với các chuyến bay hàng ngày đến Singapore.
Air France từng phục vụ Phnom Penh từ sân bay Paris-Charles de Gaulle nhưng dịch vụ này đã ngừng hoạt động. Qatar Airways bay đến và đi từ Phnom Penh, qua thành phố Hồ Chí Minh.
Có nhiều công ty xe đò, bao gồm giao thông công cộng Phnom Penh và GST Express, chạy đến hầu hết các thủ phủ của tỉnh, bao gồm Sihanoukville, Kampong Chnang, Oudong, Takeo. Công ty vận tải Thái Dương Limousine - Phnom Penh Sorya cung cấp dịch vụ xe buýt đến một số điểm đến của tỉnh dọc theo tuyến đường quốc gia và đến Thành phố Hồ Chí Minh. Giant Ibis Thái Dương Bus là một công ty xe đò lớn có trụ sở tại Phnom Penh và Việt Nam, thường tổ chức các chặng đường đi đến Sihanoukville, Kampot, Xiêm Riệp và Thành phố Hồ Chí Minh, và có cung cấp Wi-Fi miễn phí, điều hòa không khí và giá cả phải chăng. Mặc dù thành phố cách biển 290 km (180 dặm), đây là nơi có cảng nước ngọt chính của Campuchia, một cảng chính trên sông Mekong, và nó được kết nối với Biển Đông thông qua một eo biển của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam. Có những tuyến phà cao tốc nối với Cần Thơ.
Phnom Penh từng có một thời gian dài không có xe buýt công cộng phục vụ nhu cầu đi lại của người dân và du khách[9]. Những nỗ lực ban đầu của chính phủ Nhật Bản để phát triển dịch vụ xe buýt Phnom Penh bắt đầu vào năm 2001. Một bản cập nhật của kế hoạch tổng thể giao thông đô thị JICA cho Phnom Penh đã được hoàn thành và thực hiện vào năm 2014. Hiện nay, thành phố hiện được phục vụ bởi 17 tuyến xe buýt có hệ thống điều hòa, do Chính quyền thành phố Phnom Penh điều hành.
Các phương tiện giao thông cá nhân có tính phí trong thành phố bao gồm xích lô, xe ôm, tuk-tuk và taxi. Các hình thức giao thông cá nhân được người dân địa phương sử dụng bao gồm xe đạp, xe máy và ô tô.
Có thể di chuyển mọi nơi trong nội ô thành phố bằng hệ thống xe tuk-tuk, một loại phương tiện rất thịnh hành ở Campuchia. Thông thường một chiếc xe tuk-tuk có thể chở được từ 4 – 6 người.
Không như nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, taxi không phải là phương tiện giao thông phổ biến tại Phnom Penh, một phần vì số lượng ít, một phần khác xuất phát từ nhu cầu của người dân khi tuk-tuk vẫn được ưa chuộng hơn[9].
Là thủ đô của Campuchia, một số đường quốc lộ kết nối thành phố với nhiều vùng khác nhau của đất nước:
National Highway | Code | Length | Origin | Terminal | |
---|---|---|---|---|---|
Quốc lộ 1 | 10001 | 167,10 km | 103,83 mi | Phnom Penh | Biên giới Việt Nam |
Quốc lộ 2 | 10002 | 120,60 km | 74,94 mi | Phnom Penh | Biên giới Việt Nam |
Quốc lộ 3 | 10003 | 202,00 km | 125,52 mi | Phnom Penh | Veal Renh |
Quốc lộ 4 | 10004 | 226,00 km | 140,43 mi | Phnom Penh | Sihanoukville |
Quốc lộ 5 | 10005 | 407,45 km | 253,18 mi | Phnom Penh | Biên giới Thái Lan |
Quốc lộ 6 | 10006 | 416,00 km | 258,49 mi | Phnom Penh | Banteay Meanchey |
Quốc lộ 7 | 10007 | 509,17 km | 316,38 mi | Skun (quận Cheung Prey) | Biên giới Lào |
|url=
(trợ giúp) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập 27 tháng 6 năm 2010.
|url=
(trợ giúp) lưu trữ 26 tháng Mười năm 2013. Truy cập 27 tháng 6 năm 2010.