Mục Khố Thập

Mục Khố Thập
穆库什
Công chúa nhà Thanh
Thông tin chung
Sinh1595
Mất1659
Phối ngẫu
Bố Chiếm Thái (cưới 1608–1612)

Ngạch Diệc Đô (cưới 1613–1621)

Đồ Nhĩ Cách
(cưới 1621⁠–⁠1637)
Hậu duệÁt Tất Long
Hoàng tộcÁi Tân Giác La
Thân phụThanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích
Thân mẫuThứ phi Gia Mục Hô Giác La thị

Mục Khố Thập (giản thể: 穆库什; phồn thể: 穆庫什; 15951659) là một công chúa của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, con gái thứ tư của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Mục Khố Thập sinh vào năm Minh Vạn Lịch thứ 23 (1595), mẹ là Thứ phi Gia Mục Hô Giác La thị. Bà chị em cùng mẹ với Ba Bố TháiBa Bố Hải. Năm Minh Vạn Lịch thứ 36 (1608), quân Kiến Chân của Nỗ Nhĩ Cáp Xích hạ được trọng trấn phía Nam của Ô Lạp là Nghi Hãn Sơn thành (宜罕山城). Sau trận chiến, Bố Chiếm Thái cầu hôn con gái của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, hy vọng một lần nữa ký kết minh ước.[1] Kết quả, Nỗ Nhĩ Cáp Xích gả Mục Khố Thập cho Bố Chiếm Thái, Quốc chủ Ô Lạp quốc.[2][3] Trước đó, Bố Chiếm Thái từng cưới hai người con gái của Thư Nhĩ Cáp Tề là Ngạch Thực Thái và Ngạch Ân Triết lần lượt vào năm 1598 và 1603.[4] Năm 1612, mối quan hệ giữa Kiến Châu Nữ Chân và Ô Lạp bị phá vỡ. Nỗ Nhĩ Cáp Xích biết tin Bố Chiếm Thái không chỉ nhốt Mục Khố Thập lại,[5] mà còn hành hạ tra tấn bà,[6] liền xuất quân chinh phục Ô Lạp,[7] Bố Chiếm Thái chạy trốn đến Diệp Hách,[8] Mục Khố Thập được đưa trở lại Kiến Châu.[9]

Trong cuộc chiến với Bố Chiếm Thái tại Ô Lạp để giải cứu Mục Khố Thập, một người con trai của Ngạch Diệc Đô là A Đạt Hải đã tử trận. Để an ủi Ngạch Diệc Đô, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã gả Mục Khố Thập cho Ngạch Diệc Đô làm kế thê.[10] Sau khi tái giá, bà sinh cho Ngạch Diệc Đô 3 người con là Át Tất Long,[11] Tát Tát Hồn Phí Dương Cổ (mất sớm) và một người con gái. Năm 1621, sau khi Ngạch Diệc Đô qua đời, bà theo phong tục thu kế hôn, tái giá với con trai thứ tám của Ngạch Diệc Đô là Đồ Nhĩ Cách (图尔格)[12] nhỏ hơn bà chỉ 1 tuổi.[13] Át Tất Long có hai người con gái trở thành hậu phi của Khang Hi ĐếHiếu Chiêu Nhân Hoàng hậuÔn Hi Quý phi. Năm 1636, Hoàng Thái Cực lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là "Sùng Đức", đổi quốc hiệu là Đại Thanh, đổi tộc Nữ Chân thành Mãn Châu. Tháng 11, ông tiến hành sách phong cho 7 vị Công chúa. Trong đó, Mục Khố Thập được phong làm Hòa Thạc Công chúa.[14]

Vì kết hôn lâu ngày không có con, con gái của bà là Đích Phúc tấn của Bối tử Ni Kham cùng với ba người bồi giá là Mạnh Cô Tể, Tuệ NiBảo Tề Hắc lập mưu đem con người khác sinh về ngụy tạo là con mình.[9] Đúng lúc ở phủ Hoằng Nghị công có có một người đầy tớ người Hán mang thai, Phúc tấn tự nhận mình đang mang thai tám tháng. Sau khi đứa trẻ được sinh ra, ba người Mạnh Cô Tể liền lặng lẽ đưa đến Bối tử phủ. Chị gái của Ni Kham là Tể Nãi Cách cách phát hiện điều bất thường, cho rằng đứa trẻ không phải vừa mới sinh ra nhưng Phúc tấn nhất quyết phủ nhận. Mục Khố Thập và Đồ Nhĩ Cách đều bênh vực con gái, Ni Kham liền báo lên Hoàng Thái Cực. Hoàng Thái Cực ra lệnh cho Hình bộ thẩm vấn liền tra ra được đứa trẻ không phải do Phúc tấn sinh ra. Tháng 2 năm Sùng Đức thứ 2 (1637), con gái của Mục Khố Thập và ba người đồng mưu đều bị xử tử, bà được miễn tội chết, nhưng bị tước bỏ danh hiệu Hòa Thạc Công chúa, cũng bị cưỡng chế ly hôn với Đồ Nhĩ Cách, do anh trai Ba Bố Thái và em trai Ba Bố Hải phụng dưỡng.[15] Đồ Nhĩ Cách cũng được miễn tội chết nhưng bị tước đi thế chức. Át Tất Long vì che chở cho mẹ và em gái, biết mà không báo, bị tước đi chức vị Ngang bang Chương kinh.[a][b] Bối tử Ni Kham được miễn tội. Tháng 5 năm Thuận Trị thứ 16 (1659), bà qua đời, thọ 65 tuổi.

Gia quyến

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngạch phò

[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu duệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ngang bang Chương kinh (昂邦章京, tiếng Mãn: ᠠᠮᠪᠠ
    ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ
    , chuyển tả: amba janggin) là một chức quan võ cao cấp trong chế độ Bát kỳ của triều đình nhà Thanh thời sơ kỳ. Năm Thiên Thông thứ 8 (1634), Hoàng Thái Cực định Hán tự của Ngang bang Chương kinh là "Tổng binh". Đến những năm Thuận Trị, triều đình thiết lập Lục doanh độc lập với Bát kỳ, chức vụ này được chuyển sang sử dụng cho Lục doanh. Năm 1647, nguyên bản tước vị Ngang bang Chương kinh được đổi thành Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên.
  2. ^ "Ngang bang" trong Mãn ngữ nghĩa là "Quan viên cao cấp", mà "Chương kinh" chuyển tự sang tiếng Hán là "Tướng quân". Vì vậy "Ngang bang Chương kinh" chuyển tự sang tiếng Hán tương đương với "Đại Tướng quân" nhưng ý nghĩa là hoàn toàn không phải. Mãn ngữ của "Đại tướng quân" là (tiếng Mãn: ᠠᠮᠪᠠ
    ᠵᡳᠶᠠᠩᡤᡳᠶᡡᠨ
    , Möllendorff: amba jiyanggiyvn, Abkai: amba jiyanggiyūn)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Triệu Đông Thăng & Tống Chiêm Vinh (1992), tr. 75.
  2. ^ Trần Tiệp Tiên (2005), tr. 86.
  3. ^ Vương Đông Phương (2013), tr. 287.
  4. ^ Triệu Nhĩ Tốn (1998), tr. 9147.
  5. ^ Tiết Hồng (1998), tr. 920.
  6. ^ Cúc Điện Nghĩa (1997), tr. 255.
  7. ^ Triệu Nhĩ Tốn (1998), tr. 9149.
  8. ^ Triệu Đông Thăng & Tống Chiêm Vinh (1992), tr. 81.
  9. ^ a b Định Nghi Trang (1999), tr. 179.
  10. ^ Lý Cảnh Bình & Khang Quốc Xương (2006), tr. 28.
  11. ^ Lý Cảnh Bình & Khang Quốc Xương (2006), tr. 29.
  12. ^ Cao Khánh Nhân (2008a), tr. 306.
  13. ^ Khương Thủ Bằng & Lưu Phụng Văn (1997), tr. 188.
  14. ^ Vương Diễm Xuân, 王艳春 (2011). 清太祖、太宗朝公主考证拾零 [Góp nhặt khảo chứng về các công chúa triều Thanh Thái Tổ và Thái Tông]. 沈阳故宫博物院院刊 [Tạp chí Bảo tảng Cố cung Thẩm Dương] (bằng tiếng Trung). Thẩm Dương: Viện bảo tàng Cố cung Thẩm Dương. 11. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  15. ^ Lý Cảnh Bình & Khang Quốc Xương (2006), tr. 33.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan