Ông nổi tiếng trong lịch sử không chỉ vì là con trai của Đệ nhất công thần, mà còn là vì về sau ông trở thành 1 trong 4 vị Phụ chính đại thần, có nhiệm vụ nhiếp chính giúp Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế trị vì trước khi thân chính. Con gái của ông, lần lượt trở thành Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu và Ôn Hi Quý phi của Khang Hi Đế. Hoàng thập tử, Đôn Quận vương Dận Ngã - con trai Ôn Hi Quý phi, chính là cháu ngoại của ông.
Át Tất Long nguyên quán núi Trường Bạch, thân phụ là Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô, có tổng 17 đứa con trai, và Át Tất Long là con trai thứ 16 của ông. Mẫu thân là Hòa Thạc Công chúa Mục Khố Thạp, con gái của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Sau khi Ngạch Diệc Đô qua đời, vì có lệ kế tục hôn nhân mà Mục Khố Thạp lấy con trai thứ 8 của Ngạch Diệc Đô, tên Đồ Nhĩ Cách.
Năm Thiên Thông thứ 8 (1634), ông tập ấm tước vị Nhất đẳng Ngang bang Chương kinh (一等昂邦章京)[1][2] của phụ thân, giữ chức vụ Thị vệ. Phúc tấn của Bối lặc Ni Kham, con gái của Đồ Nhĩ Cách, cũng là cháu gái của Át Tất Long, vì không sinh được con trai mà lấy con của người khác rồi nói dối rằng là do mình sinh ra. Sự tình bị phát hiện, Át Tất Long bị liên lụy, đoạt tước.[3]
Năm Sùng Đức thứ 6 (1641), Át Tất Long đi theo Hoàng Thái Cực tiến đánh triều Minh, lập nhiều chiến công được ban thưởng trọng hậu.
Năm thứ 5 (1648), kế thừa Nhị đẳng Công của anh trai là Đồ Nhĩ Cách sau khi anh trai qua đời, sửa thành Nhất đẳng Công. Cùng năm ấy, Át Tất Long nhậm chức Nghị chính đại thần, Lĩnh thị vệ Nội đại thần, gia hàm Thiếu phó kiêm Thái tử Thái phó, đứng vào hàng Nội đại thần xử lý triều chính.
Năm thứ 18 (1661), Thuận Trị Đế bệnh nặng qua đời, để lại di chiếu cho Hoàng tử thứ 3 là Huyền Diệp lên ngôi, tức Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Nhưng do tuổi còn nhỏ, nên Át Tất Long cùng với Sách Ni, Ngao Bái và Tô Khắc Tát Cáp làm Phụ chính đại thần (辅政大臣).[6]
Năm Khang Hi thứ 6 (1667), Khang Hi Đế chính thức thân chính, đặc phong Át Tất Long thêm một Nhất đẳng Công, tước Công trước kia do con trai là Pháp Khách thừa tập, lại thêm hàm Thái sư. Ông luôn tránh nộ khí của Ngao Bái, lại hùa theo hắn mà độc đoán chuyên quyền, nhiều lần tùy tiện tru sát đại thần. Át Tất Long thân là cố mệnh đại thần, không bao giờ phát biểu ý kiến, luôn co đầu rút cổ, theo thanh mà phụ hoạ.
Năm thứ 8 (1669), Hoàng đế trừng trị Ngao Bái, Át Tất Long vì là đồng đảng của Ngao Bái cũng bị giam vào ngục. Khang Thân vương Kiệt Thư chiếu theo mười hai hạng tội danh hạch hỏi Át Tất Long, bị xử vào tội chết.
Năm thứ 9 (1670), Hoàng đế niệm tình ông là Cố mệnh đại thần tuy bị tước hết chức tước, nhưng riêng tước Nhất đẳng Công vẫn cho con thế tập.[7]
Năm thứ 12 (1673), Át Tất Long lâm trọng bệnh, Khang Hi Đế thân hành tới phủ viếng thăm. Ông qua đời vì bạo bệnh vào năm đó, thụy hiệu là Khác Hy (恪僖). Khang Hi Đế ngự chế văn bia, làm mộ ca ngợi công đức. Không lâu sau, con gái ông trở thành Hoàng hậu, Át Tất Long vì là cha của Hoàng hậu mà được sắc lập từ đường theo quy cách ngoại thích, đồng thời Khang Hi Đế cũng đích thân ban ngự thư bảng.[8]
Tương truyền, có một thanh đao mang tên của ông, vỏ dài 94 cm, lưỡi dài 60 cm, tương truyền đây là thanh đao chỉ huy mà Át Tất Long từng sử dụng bên mình. Sau khi ông mất, thanh đao được cất giữ trong Hoàng cung.
Kinh lược Đại học sĩ Phó Hằng chinh phạt Kim Xuyên, Đại học sĩ Tái Thượng A đánh dẹp Thái Bình Thiên Quốc, từng được Càn Long Đế và Hàm Phong Đế ban thưởng đao Át Tất Long, vì vậy một mặt của thanh đao có khắc hàng chữ ["Át Tất Long linh lung đao nhất, Càn Long thập tam niên tứ Kinh lược Đại học sĩ công Phó Hằng bình định Kim Xuyên dụng quá"; 遏必隆玲珑刀一,乾隆十三年赐经略大学士公傅恒平定金川用过], mặt còn lại khắc chữ ["Hàm Phong"; 咸丰] in ở một bên và bốn chữ Thần Phong Ác Thắng (神锋握胜).
Nguyên phối: Quận chúa, trưởng nữ của Dĩ cách Anh Thân vương A Tế Cách. Kết hôn xong thì qua đời.
Kế thất: Huyện chúa (1620 – 1667), trưởng nữ của Dĩnh Nghị Thân vương Tát Cáp Lân. Năm 1632, kết hôn với Tam đẳng công Hà Nhĩ Bản (何爾本), con trai của Hòa Thạc Đồ và Quận chúa Ái Tân Giác La thị, cũng là cháu nội của Hà Hòa Lễ và Đông Quả Cách cách. Sau khi Hà Nhĩ Bản mất vào năm 1639, Huyện chúa tái giá với Át Tất Long.
Sách Lăng (策楞), làm quan đến Lưỡng Quảng, Lưỡng Giang Tổng đốc, Thái tử Thiếu phó, Thái tử Thiếu bảo. Tập tước Nhị đẳng Công từ em trai Nột Thân, sau có công được thăng Nhất đẳng Công.
Con trai: Phúc Khánh từng làm đến Thượng thư, có con gái là Đích Phúc tấn của Đôn Quận vương Miên Khải.
A Lý Cổn (阿里衮) thừa tập Nhất đẳng Quả Nghị công, làm quan đến Lĩnh thị vệ Nội đại thần, Hộ bộThượng thư, Đại học sĩ. Nhờ con trai là Phong Thăng Ngạch (丰升额) có công bình định Kim Xuyên mà được truy gia phong "Quả Nghị Kế Dũng công".
Thứ nữ, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, mẹ là Thư Thư Giác La thị, Hoàng hậu thứ 2 của Khang Hi Đế. Không con.
Tam nữ, Ôn Hi Quý phi, mẹ là Thư Thư Giác La thị, phi tần của Khang Hi Đế, mẹ đẻ của Hoàng thập tử, Đôn Quận vương giáng Bối tử Dận Ngã.
Tứ nữ, mẹ là Ba Nhã Lạp thị, gả cho Dĩ cách Bất nhập Bát phân Phụ quốc công Vân Thăng (雲升), con trai thứ 3 của Trấn quốc công Cao Tắc - con trai thứ 6 của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực.
^Ngang bang Chương kinh (昂邦章京, tiếng Mãn: ᠠᠮᠪᠠ ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ, chuyển tả: amba janggin) là một chức quan võ cao cấp trong chế độ Bát kỳ của triều đình nhà Thanh thời sơ kỳ. Năm Thiên Thông thứ 8 (1634), Hoàng Thái Cực định Hán tự của Ngang bang Chương kinh là "Tổng binh". Đến những năm Thuận Trị, triều đình thiết lập Lục doanh độc lập với Bát kỳ, chức vụ này được chuyển sang sử dụng cho Lục doanh. Năm Thuận Trị thứ 3 (1646), đổi Nội đại thần lưu thủ Thịnh Kinh thành Ngang bang Chương kinh. Năm thứ 10 (1653), thiết lập 2 vị trí Ninh Cổ Tháp Ngang bang Chương kinh. Đến những năm Khang Hi, chức vị này được đổi thành Trú phòng Tướng quân.
^"Ngang bang" trong Mãn ngữ nghĩa là "Quan viên cao cấp", mà "Chương kinh" chuyển tự sang tiếng Hán là "Tướng quân". Vì vậy "Ngang bang Chương kinh" chuyển tự sang tiếng Hán tương đương với "Đại Tướng quân" nhưng ý nghĩa là hoàn toàn không phải. Mãn ngữ của "Đại tướng quân" là (tiếng Mãn: ᠠᠮᠪᠠ ᠵᡳᠶᠠᠩᡤᡳᠶᡡᠨ, Möllendorff: amba jiyanggiyvn, Abkai: amba jiyanggiyūn)
^“Thanh Sử Cảo, Quyển 249, Át Tất Long truyện”. 崇德六年, 从太宗伐明, 营松山, 筑长围守之. 明总兵曹变蛟率步骑突围, 迭败之. 夜三鼓, 变蛟集溃卒突犯御营, 遏必隆与内大臣锡翰等力战, 殪十余人, 变蛟负创走. 论功, 得优赉. 七年, 从饶余贝勒阿巴泰等入长城, 克蓟州; 进兵山东, 攻夏津, 先登, 拔之: 予牛录章京世职.
^Giáp lạt Chương kinh (甲喇額真, tiếng Mãn: ᠵᠠᠯᠠᠨ ᡳ ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ, Möllendorff: jalan i janggin) là một chức quan trong chế độ Bát kỳ của triều đình nhà Thanh thời sơ kỳ, Hán ngữ là "Tham tướng", chuyên quản lý chiến bị, binh tịch, tranh tụng, hộ khẩu, điền trạch. "Giáp Lạt" vốn là đơn vị của Bát kỳ, hợp thành từ 5 Ngưu lộc, đứng đầu bởi "Giáp lạt Ngạch chân" hay Tham lĩnh.
^“Thanh Sử Cảo, Quyển 249, Át Tất Long truyện”. 顺治二年, 从顺承郡王勒克德浑剿李自成兄子锦於武昌, 拔铁门关, 进二等甲喇章京. 五年, 兄子侍卫科普索讦其与白旗诸王有隙, 设兵护门, 夺世职及佐领. 世祖亲政, 遏必隆讼冤, 诏复职. 科普索旋获罪, 以所袭图尔格二等公爵令遏必隆并袭爲一等公. 寻授议政大臣, 擢领侍卫内大臣, 累加少傅兼太子太傅. 十八年, 受遗诏爲辅政大臣.