Bettinelli chơi Accrington Stanley năm 2014 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Marcus Bettinelli[1] | ||
Ngày sinh | 24 tháng 5, 1992 [2] | ||
Nơi sinh | Camberwell, Anh | ||
Chiều cao | 6 ft 4 in (1,94 m)[3] | ||
Vị trí | Thủ môn[4] | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Chelsea | ||
Số áo | 13 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2006–2010 | Fulham | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010–2021 | Fulham | 103 | (0) |
2012–2013 | → Dartford (cho mượn) | 35 | (0) |
2013 | → Accrington Stanley (cho mượn) | 17 | (0) |
2014 | → Accrington Stanley (cho mượn) | 22 | (0) |
2020–2021 | → Middlesbrough (cho mượn) | 41 | (0) |
2021– | Chelsea | 0 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2015 | U-21 Anh | 1 | (0) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21:32, 9 tháng 9 năm 2021 (UTC) |
Marcus Bettinelli (sinh ngày 24 tháng 5 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện đang chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea tại giải Ngoại hạng Anh và đội tuyển quốc gia Anh. Anh đã được gọi lên đội tuyển U-21 quốc gia Anh cũng như đội tuyển quốc gia nước này.
Bettinelli sinh ra ở Camberwell, Đại Luân Đôn.[5] Anh bắt đầu sự nghiệp của mình TẠI Fulham ở tuổi 14 vào tháng 7 năm 2006,[6] sau đó ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên trong sự nghiệp vào tháng 7 năm 2010.[7]
Bettinelli gia nhập câu lạc bộ Conference Premier Dartford vào ngày 17 tháng 8 năm 2012 dưới dạng cho mượn trong vòng một tháng để tích lũy kinh nghiệm thi đấu thường xuyên.[8] Anh có trận ra mắt một ngày sau đó, trong trận thua 2–0 trên sân khách trước Macclesfield Town.[9] Sau khi đã có bảy lần ra sân, thời hạn cho mượn của anh đã được gia hạn thêm một tháng.[10] Sau đó hợp đồng cho mượn tiếp tục được gia hạn cho đến Giáng sinh.[11] Anh đã có 42 lần ra sân trên mọi đấu trường trước khi được Fulham gọi trở lại vào ngày 26 tháng 3 năm 2013.[12]
Bettinelli gia nhập câu lạc bộ hạng Tư Accrington Stanley vào ngày 28 tháng 8 năm 2013 dưới dạng cho mượn trong một tháng.[13] Anh có trận ra mắt cùng ngày tại League Cup trong trận thua 2–0 trên sân nhà trước Cardiff City.[14] Anh có trận ra mắt giải quốc nội vào ngày 31 tháng 8, trong trận thua 1–0 trên sân nhà trước Burton Albion.[14] Fulham xác nhận vào ngày 2 tháng 9 năm 2013 rằng Bettinelli sẽ ở lại với Accrington trong phần còn lại của mùa giải 2013–14,[15] nhưng anh ấy đã được gọi về Fulham vào ngày 26 tháng 12[16] và được có tên trong danh sách đăng ký thi đấu trong chiến thắng 2-1 trên sân khách của Fulham trước Norwich City ở giải quốc nội, dự bị cho David Stockdale.[17] Vào ngày 3 tháng 1 năm 2014, anh tiếp tục được cho Accrington Stanley mượn đến ngày 30 tháng 1 năm 2014.[18]
Bettinelli đã đồng ý gia hạn thêm hai năm hợp đồng với Fulham vào ngày 10 tháng 1 năm 2014. Hợp đồng này sẽ giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến tháng 6 năm 2016.[19] Anh có trận ra mắt câu lạc bộ vào ngày 26 tháng 8 trong khuôn khổ vòng hai của Cúp Liên đoàn trước kình địch vùng Tây London Brentford. Trận này, anh giữ sạch lưới trong chiến thắng 1–0.[20] Bốn ngày sau, anh có trận ra mắt cho Fulham ở Championship với trận hòa 1-1 trên sân nhà trước Cardiff City. Vào ngày 5 tháng 12, anh bị đuổi khỏi sân sau 18 phút trong trận thua 5–0 trước Watford tại Craven Cottage vì phạm lỗi với Matěj Vydra, khiến Fulham phải chịu một bàn thua trên chấm phạt đền, ở đó Troy Deeney đã đánh bại thủ môn dự bị Gábor Király.[21]
Bettinelli gia hạn hợp đồng thêm một lần nữa vào ngày 30 tháng 8 năm 2017, giữ anh ở lại Fulham cho đến tháng 6 năm 2020 kèm điều khoản gia hạn thêm một năm.[22] Anh là sự lựa chọn thứ hai trong khung gỗ sau David Button trong tất cả ngoại trừ sáu trận đấu cuối cùng của Championship mùa giải 2016–17. Tưởng rằng sự nghiệp ở Fulham của anh đã kết thúc, nhưng cuối cùng huấn luyện viên Slaviša Jokanović đã đưa anh ấy trở thành thủ môn thủ môn số một của đội cho mùa giải tiếp theo.[23] Fulham đứng thứ ba và giành quyền tham dự vòng play-off, đánh bại Derby County với tổng tỷ số 2-1 trong trận bán kết và vượt qua Aston Villa 1–0 trong trận chung kết play-off lên hạng tại Sân vận động Wembley.[24][25]
Vào tháng 10 năm 2018, Bettinelli đã ký một hợp đồng mới có thời hạn đến năm 2021.[26] Trong mùa giải 2018–19, anh mất vị trí số một ở Fulham vào tay thủ môn người Tây Ban Nha Sergio Rico, cầu thủ tới đội bóng dưới dạng cho mượn ngay trước khi Jokanović bị sa thải vào tháng 11. Tình hình vẫn tiếp diễn dưới thời tân HLV Claudio Ranieri.[27][28] Anh phải kết thúc sớm mùa giải 2018–19 của mình ngay từ tháng 2 năm 2019 khi phải nghỉ thi đấu sáu tháng sau một ca phẫu thuật đầu gối.[29]
Vào ngày 10 tháng 9 năm 2020, Bettinelli gia nhập câu lạc bộ đang thi đấu tại Championship Middlesbrough theo hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải.[30]
Bettinelli ký hợp đồng với câu lạc bộ Premier League Chelsea vào ngày 28 tháng 7 năm 2021 theo hợp đồng hai năm.[31]
Vào tháng 11 năm 2014, Bettinelli lần đầu được gọi lên đội tuyển U-21 Anh cho các trận đấu với Bồ Đào Nha và Pháp.[32] Anh có trận ra mắt trong trận giao hữu với Cộng hòa Séc vào ngày 27 tháng 3 năm 2015 với chiến thắng 1–0 trên sân khách.[33] Đây là trận đấu duy nhất của anh ấy cho đội U-21 Anh.[34]
Vào tháng 9 năm 2018, anh được gọi vào đội tuyển quốc gia Anh cho các trận đấu với Tây Ban Nha và Thụy Sĩ, chỉ 9 ngày sau khi có trận ra mắt Ngoại hạng Anh.[35][36]
Anh là con trai huấn luyện viên thủ môn Vic Bettinelli của Học viện bóng đá Fulham.[37] Bettinelli có gốc gác Ý từ gia đình bên nội.[38]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải quốc nội | Cúp FA | Cúp EFL | Châu Âu | Khác | Tổng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Fulham | 2012–13[39] | Premier League | 0 | 0 | — | — | — | — | 0 | 0 | ||||
2013–14[14] | Premier League | 0 | 0 | — | 0 | 0 | — | — | 0 | 0 | ||||
2014–15[40] | Championship | 39 | 0 | 4 | 0 | 2 | 0 | — | — | 45 | 0 | |||
2015–16[41] | Championship | 11 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | — | — | 12 | 0 | |||
2016–17[42] | Championship | 6 | 0 | 3 | 0 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | 11 | 0 | ||
2017–18[24] | Championship | 26 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | — | 3 | 0 | 30 | 0 | ||
2018–19[43] | Premier League | 7 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | — | 8 | 0 | |||
2019–20[44] | Championship | 14 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 14 | 0 | ||
2020–21[45] | Premier League | 0 | 0 | — | — | — | — | 0 | 0 | |||||
Tổng cộng | 103 | 0 | 8 | 0 | 4 | 0 | — | 5 | 0 | 120 | 0 | |||
Dartford (cho mượn) | 2012–13[46] | Conference Premier | 35 | 0 | 0 | 0 | — | — | 7 | 0 | 42 | 0 | ||
Accrington Stanley (cho mượn) | 2013–14[14] | League Two | 39 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | 0 | 0 | 41 | 0 | |
Middlesbrough (cho mượn) | 2020–21[45] | Championship | 41 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | — | — | 42 | 0 | ||
Chelsea | 2021–22[47] | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tổng sự nghiệp | 218 | 0 | 9 | 0 | 6 | 0 | 0 | 0 | 12 | 0 | 245 | 0 |