![]() Miyaichi trong màu áo St. Pauli năm 2017 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Ryo Miyaichi[1] | ||
Ngày sinh | 14 tháng 12, 1992 | ||
Nơi sinh | Okazaki, Aichi, Nhật Bản | ||
Chiều cao | 1,83 m (6 ft 0 in)[2][3] | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | St. Pauli | ||
Số áo | 13 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2001–2008 | Sylphid FC | ||
2008–2010 | Trung học Chukyodai Chukyo | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2011–2015 | Arsenal | 1 | (0) |
2011 | → Feyenoord (mượn) | 12 | (3) |
2012 | → Bolton Wanderers (mượn) | 12 | (0) |
2012–2013 | → Wigan Athletic (mượn) | 4 | (0) |
2014–2015 | → Twente (mượn) | 10 | (0) |
2014–2015 | → Jong Twente (mượn) | 14 | (3) |
2015– | St. Pauli | 44 | (7) |
2017– | → St. Pauli | 6 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007 | U-15 Nhật Bản | 3 | (2) |
2008 | U-16 Nhật Bản | 3 | (1) |
2009 | U-17 Nhật Bản | 5 | (2) |
2010 | U-20 Nhật Bản | 8 | (1) |
2012 | Nhật Bản | 2 | (0) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 16 tháng 12 năm 2018 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 2 tháng 9 năm 2014 |
Miyaichi Ryō (宮市 亮 sinh ngày 14 tháng 12 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá Nhật Bản thi đấu ở vị trí tiền vệ cho St. Pauli tại 2. Bundesliga. Anh từng thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Miyaichi từng thi đấu ở Giải bóng đá Ngoại hạng Anh cho các câu lạc bộ như Arsenal, Wigan Athletic và Bolton Wanderers. Anh cũng từng khoác áo Feyenoord và Twente ở Hà Lan.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống thể thao, cha của anh, Tatsuya, là một cựu cầu thủ bóng chày từng thi đấu và sau đó là huấn luyện viên của câu lạc bộ bóng chày Toyota Motors, và anh trai, Tsuyoshi, cũng là một cầu thủ bóng đá.[4] Miyaichi bắt đầu chơi bóng trong những năm học tiểu học tại clb Sylphid ở Nagoya.[5] Anh vào học ở trường trung học Chūkyōdai Chūkyō và sau đó chơi cho câu lạc bộ bóng đá của trường. Ở mùa giải 2010, đội tham dự giải bóng đá các trường trung học toàn Nhật Bản nhưng bị đánh bại ngay từ vòng một; trận đấu cũng được tường thuật trên khắp nước Nhật.[6][7]
Miyaichi thử việc lần đầu cho Arsenal vào mùa hè năm 2010, huấn luyện viên Arsenal, Arsène Wenger, đã bị ấn tượng với khả năng của Miyaichi và sau đó đã đề nghị anh ký hợp đồng với Arsenal. Ngày 31 tháng 1 năm 2011, anh gia nhập câu lạc bộ và ký hợp đồng chuyên nghiệp. Arsène Wenger cũng cho biết: "Chúng tôi rất vui mừng vì Miyaichi Ryō đã gia nhập câu lạc bộ. Anh ấy đã luyện tập với chúng tôi trong mùa hè này và đã thể hiện nhiều khả năng tiềm tàng có thể thu hút các câu lạc bộ trên khắp thế giới".[8]
Sau khi ký hợp đồng với Arsenal, anh được chuyển đến Feyenoord theo dạng cho mượn. Ngày 5 tháng 2, anh có trận ra mắt cho Feyenoord gặp Vitesse. Anh đá đủ 90 phút và được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận (trận đấu kết thúc với tỉ số 1–1).[9] Miyaichi được thi đấu trong trận gặp Heracles Almelo, anh là người ghi bàn mở tỉ số và kiến tạo bàn thứ 2 cho Feyenoord.[10] Ngày 17 tháng 4 năm 2011, Miyaichi lập cú đúp và có 2 lần kiến tạo trong trận thắng 6–1 của Feyenoord trước Willem II.[11]
Truyền thông Hà Lan đặt cho anh biệt danh "Ryodinho" để so sánh với Ronaldinho.
Sau khi quay trở lại Arsenal, Miyaichi gia nhập đội hình chính cho chuyến tập huấn trước mùa giải. Anh góp mặt trong đội hình 23 cầu thủ tham dự tour du đấu châu Á sau khi gây ấn tượng trong việc luyện tập.
Ở tour du đấu, Miyaichi có trận đầu gặp Malaysia All-Stars XI, anh được đá chính từ đầu trước khi bị thay ra bởi Robin van Persie ở phút 66.[12]
Ngày 9 tháng 8 năm 2011, Miyachi được nhận giấy phép lao động tại Anh.[13][14] Anh cũng có mặt trong đội hình đăng ký của Arsenal trong trận gặp Udinese ở Champions League.[15] Ngày 23 tháng 8 năm 2011, Miyaichi ghi bàn ở phút 83 trong trận đấu giữa đội dự bị Arsenal và đội dự bị Wigan Athletic.
Ngày 20 tháng 9 năm 2011, Miyaichi có trận đấu đầu tiên cho Arsenal gặp Shrewsbury Town tại vòng 3 cúp Liên đoàn khi được thay vào ở phút 71. Anh một lần nữa được vào sân thay người tại cúp Liên đoàn trong trận Arsenal thắng Bolton 2 - 1.
Trong trận đấu của đội dự bị gặp Fulham vào ngày 7 tháng 11, Miyaichi chỉ thi đấu trong 34 phút trước khi bị dính chấn thương mắt cá chân khiến anh phải nghỉ từ 4-6 tuần.
Mặc dù đã được góp mặt trong đội hình chính, Miyaichi thừa nhận anh vẫn còn phải học hỏi nhiều.[16]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp | Cúp Liên đoàn | châu Âu | Tổng cộng | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Kiến tạo | Trận | Bàn | Kiến tạo | Trận | Bàn | Kiến tạo | Trận | Bàn | Kiến tạo | Trận | Bàn | Kiến tạo | ||
Feyenoord | 2010–11 | 12 | 3 | 5[19] | – | – | – | 12 | 3 | 5 | ||||||
Tổng cộng | 12 | 3 | 5 | – | – | – | 12 | 3 | 5 | |||||||
Arsenal | 2011–12 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 |
Tổng cộng | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 |
Số liệu thống kê chính xác tới ngày 30 tháng 7 năm 2010
|
|
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)
|access-date=
(trợ giúp)
|date=
(trợ giúp)
|access-date=
(trợ giúp)
|access-date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
|date=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)