Ngâm[1] (Chữ Nho: 吟) là phiếm danh của một hình thức diễn xướng thi phú bằng lối luyến láy, cầm chữ và nhả chữ.
Chưa có cứ liệu xác định ngâm xuất hiện từ bao giờ, nhưng ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, hình thức này đã rất phổ biến trong giới nghệ sĩ và ham thích thơ. Vào năm 1955, ở Sài Gòn, hai thi sĩ Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân đã sáng lập trên Đài Vô tuyến Việt Nam tiết mục Thi văn Tao Đàn, phát thanh vào mỗi tối thứ Bảy từ lúc 21:15 cho đến 22:00 với giọng diễn đọc của Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy, lần đầu tiên ngâm được đưa lên truyền thông đại chúng. Sau đó ít lâu còn thêm tiết mục Mây tần của thi sĩ Kiên Giang với chủ yếu là thơ. Ở Hà Nội cũng có tiết mục Tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam, hiện nay vẫn được duy trì.
Nghệ thuật của ngâm khá gần ca trù, nhưng đôi lúc được kết hợp với hát để gia tăng sự đặc sắc, thông thường phải dạo một khúc ngâm rồi mới hát. Ngâm sĩ biểu diễn hoàn toàn ngẫu hứng và thường có tiếng sáo đệm theo. Nhạc sĩ Trần Quang Hải đã thống kê được một số làn điệu ngâm như sau:
Ngâm phát triển khá mạnh ở lối nói Bắc, với nhiều sự phân nhánh.
Ở lối nói Trung có điệu Huế, dựa trên thang âm Trung Kỳ (được nghe lúc hò mái nhì mái đẩy). Thang âm gồm những nốt nhạc như sau: Do, Re (hơi thấp), Fa (hơi cao), Sol, La (hơi thấp), Do. Nốt cuối câu có thể ở nốt Do hay nốt Fa tùy theo ngâm sĩ muốn dừng ở đău.
Ở lối nói Nam, thường ngâm sĩ chỉ xướng Lục Vân Tiên. Thang âm Do, Mib, Fa, Sol, La, Do. Chữ chót là dấu huyền thì phải ngâm ở nốt Do. Nếu chữ chót là không dấu thì phải ngâm ở nồt Fa.