Tổng dân số | |
---|---|
7 triệu | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Indonesia | 6.359.700[1] |
Nam Sulawesi | 3.618.683 |
Đông Kalimantan | 735.819 |
Đông Nam Sulawesi | 496.432 |
Trung Sulawesi | 409.741 |
Tây Sulawesi | 144.554 |
Tây Kalimantan | 137.282 |
Riau | 107.159 |
Nam Kalimantan | 101.727 |
Jambi | 96.145 |
Papua | 88.991 |
Jakarta | 68.227 |
Tây Papua | 40.087 |
Malaysia | 300.000[2] |
Singapore | 97.000 |
Hà Lan | 99.000 |
Ngôn ngữ | |
Tiếng Bugis, Indonesia, Malay | |
Tôn giáo | |
Sunni Islam (98.99%), Tin Lành (0.46%), Hindu (0.41%), Kitô (0.09%), Vật linh (0.04%), Phật giáo (0.01%) | |
Sắc tộc có liên quan | |
Người Makassar, Mandar, Toraja | |
Cước chú | |
a Chừng 3.500.000 người thừa nhận là Bugis. |
Người Bugis là một nhóm sắc tộc cư trú ở Nam Sulawesi thuộc tỉnh Tây Nam Sulawesi, hòn đảo lớn thứ ba ở Indonesia, và là dân tộc lớn nhất ở Nam Sulawesi [3]. Tổng dân số Bugis ước tính 7 triệu người, trong đó một số ít sống ngoài Indonesia.
Người Bugis nói tiếng Bugis, thực tế là nhóm của 3 nhóm ngôn ngữ. Ngôn ngữ này được phân loại là thành phần của chi nhánh Nam Sulawesi, thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia).
Các tổ tiên Austronesia của người Bugis đã định cư tại Sulawesi vào khoảng năm 2500 TCN. Họ được coi là di cư và có "tổ tiên cuối cùng có thể ở Nam Trung Quốc". Điều này thể hiện ở các "bằng chứng ngôn ngữ lịch sử về một số di cư Holocene muộn của người Austronesia đến Nam Sulawesi từ Đài Loan". Có nghĩa là người Bugis có, và do hậu quả của sự nhập cư này, "có một truyền thống của một dân ngoại sinh từ Trung Quốc hoặc Đài Loan." [4]
Luận điểm di cư từ Nam Trung Quốc cũng được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về các nhóm DNA haplogroup trong Y-chromosome của người [5].
Người Bugis vào năm 1605 đã chuyển đổi thuyết vật linh sang Hồi giáo [6]. Một số người Bugis đã giữ lại đức tin trước đây của họ gọi là Tolotang, và một số người khác thì chuyển đổi sang Kitô giáo do kết hôn, nhưng họ vẫn là thiểu số [7].