Nghệ thuật Hungary

Họa tiết trang trí đặc trưng nhất là phong cách hình lá cọ giống như trên tấm túi da của kỵ sĩ này.
Nhiều ngôi làng theo phong cách Romanesque ở Hungary được thiết kế theo hình thức rotunda, giống như ở Nagytótlak.

Nghệ thuật Hungary bắt nguồn từ thời kỳ chinh phạt của lưu vực Carpathia bởi người Árpád vào thế kỉ 9. Hoàng tử Árpád cũng đã nắm quyền sớm hơn cả những người dân định cư ở khu vực này.

Kỵ sĩ ở lưu vực Carpathia

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi người Árpád đặt chân đến, nhiều người dân tộc khác đến từ thảo nguyên đã thành lập nên các lãnh thổ trên lưu vực Carpathia. Thủ đô của người Hun (Xiongnu theo tiếng Trung Quốc) là Buda, đặt theo tên anh trai của Vua Attil, mặc dù nhà hùng biện Priscus - một nhà sử học ở thế kỉ 5 và đại sứ của Đế quốc Byzantine lại cho rằng thủ phủ của người Hun nằm ở vùng đồng bằng giữa hai con sông DanubeTisza. Sau cái chết của Attila vào năm 453, người Lombard, người Gepid và kế đến là người Avar đã lập nên các quốc gia (569). Vương quốc Avar cổ đã bị người Frank đánh bại, và người Avar của xứ Transdanubia được rửa tội. Những người Hungary đầu tiên đặt chân đến lưu vực vào cuối thế kỉ 9.

Nghệ thuật thời kỳ xâm lăng

[sửa | sửa mã nguồn]

Người dân Árpád ở thế kỉ 9 đã sử dụng những họa tiết trang trí đẹp mắt để trang trí cho phục trang và dây buộc ngựa của họ, họa tiết chính là hình lá cọ (xem hình minh họa phía trên). Phong cách này vẫn rất quang trọng ở Hungary từ thế kỉ 9 đến thế kỉ 11, những họa tiết tương đồng có thể xuất hiện trong nền nghệ thuật trang trí đương đại của các vùng Caucasus, Iran và Trung Á.

Nghệ thuật trong thời kỳ Romanesque

[sửa | sửa mã nguồn]

Những hậu duệ của Hoàng tử Árpád đã dựng nên Vương quốc Hungary thời Trung Cổ. Trong thời kỳ này, sự kết hợp của những phong cách có nguồn gốc thảo nguyên với phong cách nghệ thuật Romanesque của châu Âu đã cho ra đời một di sản đồ sộ, với những nét tương đồng đáng chú ý trong nghệ thuật của người Viking Scandinavi và người Celt ở Tây Âu. Lễ đăng quang của Vua Stephen (trao vương miện vào năm 1000 SCN) là một ví dụ cực kỳ nổi bật của thời kỳ này.

Chiếc hoàng bào Hungary từ triều đại của Vua Stephen I của Hungary, trị vì giai đoạn 1000-1038 SCN.

Vị vua này tuyên bố rằng "10 ngôi làng nên xây dựng một nhà thờ", và mặc dù sau này nhiều phát kiến của ông nổi tiếng dưới hình thức mới, tất cả chúng đều có niên đại từ lex Stephani (luật của vua Stephen) trở đi.

Kiến trúc và điêu khắc nhà thờ

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù bị tàn phá nặng nề trong thời kì bị Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng (khoảng năm 1526-1686), các nhà thờ theo lối kiến trúc Romanesque và các tòa nhà giáo hội khác có thể được tìm thấy trên khắp lưu vực Carpathia. Những ví dụ điển hình vẫn tồn tại ở Székesfehérvár, Gyulafehérvár, Esztergom, Pannonhalma, còn các trung tâm bảo tồn mới mở cửa gần đây ở Pécs, VeszprémEger vẫn còn hoạt động từ thời kỳ này. Tàn tích của những ngôi nhà hoàng gia tại Tarnaszentmária, Feldebrő và Szekszárd còn cho thấy nét thiết kế tương đồng với nền kiến trúc đương đại từ Caucasus.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • [Dercsényi D., Zádor A. (1980): Kis magyar művészettörténet (A honfoglalás korától a XIX. század végéig). Little Hungarian Art History. (Képzőművészeti Alap Kiadóvállalata, Budapest]
  • [Szentkirályi Z. Détshy M. (1986): The Short history of Architecture. I-II. Műszaki, Budapest]
  • [Radocsai Dénes: Magyarországi reneszánsz művészet. The Hungarian Renaissance Art. Képzőművészeti Alap Kiadóvállalata, Budapest]
  • [Aradi N. (főszerk.) (Ész. N.): A művészet története Magyarországon. The History of Art in Hungary, Gondolat, Budapest]
  • [Fülep L. (főszerk.) (Ész. N.): A magyarországi művészet története. The History of Art in Hungary, Budapest]
  • [Gerevich T. (1938): Magyarország románkori emlékei. Romanesque art heritage of Hungary. Királyi Magyar Egyetemi Nyomda, Budapest]
  • [Henszlmann I. (1876): Magyarország ó-keresztyén, román és átmeneti stylü mű-emlékeinek rövid ismertetése. Királyi Magyar Egyetemi Nyomda, Budapest]
  • [Marosi E. (1972): A román kor művészete. The Art of the Romanesque Age. Corvina Kiadó, Budapest]
  • [László Gy. (1974): A népvándorláskor művészete Magyarországon. The art of the great migration times in Hungary. Corvina, Budapest]
  • [Huszka J. (1930): A magyar turáni ornamentika története. The History of the Hungarian Turanian Ornamental Art. Pátria, Budapest]
  • [Bakay K. (1997, 1998): Őstörténetünk régészeti forrásai. Sources ofour ancient history. I. II. Miskolc]
  • [Tombor I. (1968): Magyarországi festett famennyezetek és rokonemlékek a XV-XIX. századból. Painted wood ceiling and related heritage from Hungary, in the 15th-19th Centuries. Akadémiai, Budapest]
  • [Domanovszky Gy. (1981): A magyar nép díszítőművészete I-II. The Ornamental Art of the Hungarian People. Akadémiai, Budapest]
  • [Bérczi Sz. (1987): Szimmetriajegyek a honfoglalás kori palmettás és az avar kori griffes-indás díszítőművészetben. Cumania. 10. Symmetry in Ornamental Art of the Palmette art of Conquesting Hungarians and the Griffin-and-Tendrill art of the Avar-Onogurians. (Bács-Kiskun Megyei Múzeumi Évkönyv), 9-60. old.]
  • [László, Gy. (1943): A Kolozsvári testvérek Szent György lovas-szobrának lószerszáma. The Horse Mount of the Statue of St. George Made by the Kolozsvári Brothers. Egyetemi Nyomda, Kolozsvár]
  • [László, Gy. (1943b): Der Grabfund von Koroncó und der altungarische Sattel. Archaeologia Hungarica, XXVII. Budapest]
  • [Gombrich, E (1986): A művészet története, The History of Arts. Gondolat Kiadó, Budapest]
  • [Fodor I. (1996): A honfoglaló magyarság. The Conquesting Hungarians. Magyar Nemzeti Múzeum, Budapest]
  • [Gerő L. (szerk.) (1975): Várépítészetünk. Architecture of t our fortresses and cestles. Műszaki, Budapest]
  • [Gervers-Molnár V. (1972): A középkori Magyarország rotundái. Rotundas in the Medieval Hungary. Akadémiai, Budapest]
  • [Lükő G. (1942): A magyar lélek formái. The forms of the Hungarian Soul. Exodus, Budapest]
  • [Ortutay Gy. (főszerk.) (1977–1982): Magyar Néprajzi Lexikon. Encyclopedia of the Hungarian Ethnography. Akadémiai Kiadó, Budapest]
  • [Szőnyi O. (É.n.): Régi magyar templomok. Alte Ungarische Kirchen. Anciennes églises Hongroises. Hungarian Churches of Yore. A Műemlékek Országos Bizottsága. Mirályi Magyar Egyetemi Nyomda, Budapest. ]
  • [Zolnay L. (1977): Kincses Magyarország. The Treasuries of Hungary. Magvető, Budapest]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • “Művészettörténet - 12.hét - A magyarországi romanika”. Sulinet.hu. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  • “Művészettörténet - 15.hét - A reneszánsz művészete”. Sulinet.hu. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  • “Művészettörténet - 17.hét - A magyarországi reneszánsz művészete”. Sulinet.hu. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  • “FUNZINE - See you there!”. Funzine.hu. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
[RADIO NHUỴ HY] Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Giới thiệu AG Izumo the Reinoha - Artery Gear: Fusion
Giới thiệu AG Izumo the Reinoha - Artery Gear: Fusion
Nhìn chung Izumo có năng lực sinh tồn cao, có thể tự buff ATK và xoá debuff trên bản thân, sát thương đơn mục tiêu tạo ra tương đối khủng
Giới thiệu Kiseijuu - bộ anime/manga kinh dị hay nhức nách
Giới thiệu Kiseijuu - bộ anime/manga kinh dị hay nhức nách
Được xem là một trong những siêu phẩm kinh dị khoa học viễn tưởng và giành được vô số giải thưởng của thế giới M-A, Parasyte chủ yếu nhắm tới độc giả là nam giới trẻ và trưởng thành
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Sau Wukong, series Black Myth sẽ khai thác tiếp Thiện Nữ U Hồn, Phong Thần Bảng, Khu Ma Đế Chân Nhân, Sơn Hải Kinh, Liêu Trai Chí Dị…