Pécs | |
---|---|
— Thành phố — | |
Pécs | |
Vị trí của Pécs | |
Vị trí của Pécs | |
Tọa độ: 46°04′17″B 18°13′59″Đ / 46,07125°B 18,23311°Đ | |
Country | Hungary |
County | Baranya |
Chính quyền | |
• Thị trưởng | Attila Péterffy (Chính khách độc lập) |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 162,61 km2 (6,278 mi2) |
Dân số (2010) | |
• Tổng cộng | 157.680Tăng |
• Mật độ | 963,43/km2 (249,530/mi2) |
Múi giờ | CET (UTC+1) |
• Mùa hè (DST) | CEST (UTC+2) |
Postal code | 7600 |
Mã điện thoại | 72 |
Mã ISO 3166 | HU-PS |
Thành phố kết nghĩa | Arad, Cluj-Napoca, Fellbach, Graz, Kütahya, Lahti, Dijon, Grenoble, Lyon, Novi Sad, Olomouc, Osijek, Seattle, Sliven, Terracina, Tucson, Tuzla, Kraków, Pula, Beyoğlu, Shiraz, Samobor, Namur, Aix-en-Provence |
Trang web | http://www.pecs.hu/ |
Tên chính thức | Necropolis tiền Kitô của Pécs (Sopianae) |
Tiêu chuẩn | iii, iv |
Đề cử | 2000 |
Pécs (phát âm tiếng Hungary: [pe ː tʃ]) là thành phố lớn thứ năm của Hungary, nằm trên sườn núi Mecsek ở phía tây-nam của đất nước, gần biên giới với Croatia. Đây là trung tâm hành chính và kinh tế của hạt Baranya. Nơi đây có Giáo phận Công giáo La Mã Pécs.
Thành phố Sopianae được người La Mã thành lập vào thế kỷ 2. Tới khoảng thế kỷ thứ 4, nó trở thành thủ phủ của tỉnh Valeria và là một trung tâm quan trọng của Đạo Thiên Chúa thời kỳ đầu. Địa điểm chôn cất Kitô giáo cổ tại Pécs được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 2000.[1]
Dữ liệu khí hậu của Pécs | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 1.6 (34.9) |
4.8 (40.6) |
10.3 (50.5) |
16.0 (60.8) |
20.9 (69.6) |
24.0 (75.2) |
26.3 (79.3) |
25.9 (78.6) |
22.3 (72.1) |
16.6 (61.9) |
8.8 (47.8) |
3.4 (38.1) |
15.1 (59.1) |
Trung bình ngày °C (°F) | −1.4 (29.5) |
1.3 (34.3) |
5.6 (42.1) |
10.7 (51.3) |
15.5 (59.9) |
18.6 (65.5) |
20.5 (68.9) |
20.1 (68.2) |
16.6 (61.9) |
11.3 (52.3) |
5.1 (41.2) |
0.6 (33.1) |
10.4 (50.7) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −4.0 (24.8) |
−1.7 (28.9) |
1.6 (34.9) |
6.0 (42.8) |
10.5 (50.9) |
13.6 (56.5) |
15.0 (59.0) |
14.7 (58.5) |
11.7 (53.1) |
7.0 (44.6) |
2.2 (36.0) |
−1.7 (28.9) |
6.2 (43.2) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 39 (1.5) |
32 (1.3) |
38 (1.5) |
55 (2.2) |
63 (2.5) |
84 (3.3) |
61 (2.4) |
63 (2.5) |
47 (1.9) |
37 (1.5) |
56 (2.2) |
44 (1.7) |
619 (24.5) |
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 1.0 mm) | 7 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 7 | 7 | 6 | 6 | 8 | 8 | 89 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 68.2 | 92.4 | 145.7 | 186.0 | 235.6 | 258.0 | 294.5 | 266.6 | 207.0 | 164.3 | 81.0 | 58.9 | 2.058,2 |
Nguồn: Đài quan sát Hồng Kông.[2] |
Khu vực này đã có người ở từ thời cổ đại, với những phát hiện khảo cổ lâu đời nhất là 6000 năm tuổi. Trước thời kỳ La Mã, đây là nơi sinh sống của người Celt. Khi phía Tây Hungary là một tỉnh của đế quốc La Mã (được đặt tên là Pannonia), người La Mã thành lập một số thuộc địa sản xuất rượu vang dưới cái tên chung của Sopianae nơi Pécs hiện nay là, trong những năm đầu thế kỷ thứ 2.
Trung tâm của Sopianae là nơi cung điện Bưu chính hiện nay là. Một số bộ phận của hệ thống dẫn nước La Mã vẫn còn nhìn thấy được. Khi tỉnh Pannonia được chia thành bốn đơn vị hành chính, Sopianae là thủ phủ của các bộ phận ở Valeria.
Trong nửa đầu của thế kỷ thứ 4, Sopianae trở thành một thành phố Kitô giáo quan trọng. Các nghĩa trang Kitô đầu tiên có niên đại từ thời đại này, được ghi vào danh sách di sản thế giới. Đến cuối thế kỷ, La Mã suy yếu trong khu vực, chủ yếu là do các cuộc tấn công của người Barbarian và người Hung.
Trước Charlemagne đến đây, nó được cai trị bởi Avars. Charlemagne sau khi chinh phục khu vực, sáp nhập nó vào Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó thuộc về giáo phận của Salzburg.
Một văn bản tại Salzburg vào năm 871 là tài liệu đầu tiên đề cập đến các thành phố thời trung cổ thời kỳ đầu dưới cái tên Quinque Basilicae. Trong thế kỷ thứ 9, thành phố là nơi sinh sống của các dân tộc Slavơ và Avar và là một phần của Công quốc Hạ Pannonia, một nước chư hầu của Pháp.