Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Nguyễn Văn Trí | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1960 – 1965 |
Thông tin chung | |
Sinh | 1912 Mỹ Tho, Liên bang Đông Dương |
Mất | 28 tháng 9, 1965 Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa | (53 tuổi)
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Nguyễn Văn Trí (1912 - 28 tháng 09 năm 1965) (bí danh: Hai Trí) là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính ủy Quân khu 7, Phó Chính ủy Quân khu 8, Xứ Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, Phó Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nông trường Việt Nam.
- Tên thật: Nguyễn Văn Trí.
- Bí danh: Hai Trí
- Năm sinh: 1912 (trên giấy tờ 1913)
- Quê quán: tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
- Ông thi đỗ vào trường Collège de My Tho, là một trong hai trường trung học ở lục tỉnh Nam Kì lúc ấy, là bạn học cùng lớp của ông Phạm Hùng.
- Ông tham gia Cách mạng từ năm 1926, được ông Trần Nguyên Phụ (nguyên là lãnh đạo nghĩa quân Đề Thám) giới thiệu gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, và được cử đi học tại Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
- Năm 1927, ông về nước. Năm 1929 gia nhập An Nam Cộng sản Đảng, trong Ban chấp hành Đặc ủy Hậu Giang cùng các ông: Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Thanh Sơn,… [1]
- 1930, Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, là tỉnh ủy viên Liên tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre. Ông là người xây dựng cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Bến Tre [2]
- Năm 1931, ông bị bắt và kết án tử hình cùng với các ông Phạm Hùng, Nguyễn Văn Tây. Nhưng do phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong nước cùng với Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp, thực dân Pháp phải giảm án xuống chung thân khổ sai và đày ông đi Côn Đảo.[3]
- 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Mỹ Tho.
- 1946, ông là phó chính ủy Khu 8. Ông Nguyễn Văn Trí cùng với Nguyễn Văn Kỉnh được giao nhiệm vụ xây dựng căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười. Trong thời gian này ông đã xây dựng trường Quân Chính Khu 8.
- Cuối năm 1946, để tăng cường công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang, Xứ Ủy lâm thời điều động đồng chí Nguyễn Văn Trí từ khu 8 về làm Chủ nhiệm chính trị khu 7, Huỳnh Kim Trương làm Tham mưu trưởng.[4]
- 1946 - 1949, Ông làm Thường vụ khu ủy, Bí thư quân khu Ủy, Chính ủy khu 7 thay cho ông Trần Xuân Độ, trung tướng Nguyễn Bình làm tư lệnh[5].
- Cuối tháng 7 năm 1948, trên bờ kênh Năm Ngàn giữa chiến khu Đồng Tháp Mười, Đại hội đại biểu xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất được triệu tập. Ông được bầu làm Xứ Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ cùng các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thị Thập, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Thái Bường.
- 1949 – 1950, Ông về làm Khu ủy viên Khu 8, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 8.
- Năm 1950, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Tỉnh căn cứ Đồng Tháp Mười, ông được cử làm Bí thư tỉnh Ủy[6]
- Ngày 5 tháng 9 năm 1951, Trung ương thành lập Ban căn cứ địa Nam Bộ do ông Nguyễn Văn Trí làm Trưởng ban. Tại chiến khu Đ, Ban Căn cứ địa họp và xác định xây dựng một hệ thống căn cứ địa chính cho toàn chiến trường Nam Bộ, gần chiến khu Đ. Đó là các chiến khu: Minh Châu, Đồng Tháp Mười và U Minh.[7]
- 1954, ông được phân công làm Phó Chánh Văn phòng Ban thi hành Hiệp định đình chiến Trung ương, sau Ban đổi tên là Ban thi hành Hiệp định Geneva.
- 1957, Ông Nguyễn Văn Trí được phân công làm Phó trưởng ban Thống nhất TW, ông Phạm Hùng làm trưởng Ban.[8]
- Năm 1960, ông làm Thứ trưởng Bộ Nông trường nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với những đóng góp của ông trong thời kỳ này, ông được nhà nước trao tặng Huân chương Lao động.
Ông từ trần ngày 28 tháng 9 năm 1965 tại Hà Nội.