Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur

Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur
Bod, Bod–Himalaya
Tạng-Miến Tây
Phân bố
địa lý
Nepal, Tây Tạng và các khu vực lân cận
Phân loại ngôn ngữ họcHán-Tạng
  • Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur
Ngữ ngành con
Glottolog:bodi1256[1]

Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur hay ngữ quần Tạng-Kanaur, còn được gọi là ngữ quần Bod, ngữ quần Bod-Himalaya, ngữ quần Tạng-Himalaya (藏-喜马拉雅语群) và ngữ quần Tạng-Miến Tây, là một cấp phân loại trung gian được đề xuất của ngữ hệ Hán-Tạng, tập trung vào nhóm ngôn ngữ Tạngcụm phương ngữ Kinnaur. Các nhà ngôn ngữ học có nhiều quan niệm khác nhau về nhóm ngôn ngữ này.

Những quan niệm về nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến Tây, phần lớn theo Thurgood và La Polla (2003).[2]
Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến Tây, phần lớn theo Thurgood và La Polla (2003).[2]

Benedict (1972) ban đầu đặt ra nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur hay còn gọi là nhóm ngôn ngữ Bod-Himalaya, nhưng có một quan niệm rộng hơn về nhóm Himalaya so với phân loại thường thấy hiện nay, bao gồm nhóm ngôn ngữ Khương, nhóm ngôn ngữ Magartiếng Lepcha. Theo quan niệm của Benedict, Tạng-Kanaur là một trong bảy hạt nhân ngôn ngữ, hay trung tâm hấp dẫn dọc theo một phổ, trong ngữ tộc Tạng-Miến. Hạt nhân trung tâm nhất được Benedict xác định là tiếng Cảnh Pha (bao gồm cả nhóm ngôn ngữ Kachin-Lui và nhóm ngôn ngữ Tamang); các hạt nhân ngoại vi khác ngoài nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur bao gồm nhóm ngôn ngữ Kiranti (tiếng Bahing-Vayu và có lẽ là tiếng Newar); nhóm ngôn ngữ Tani; nhóm ngôn ngữ Bodo-Garo và có lẽ là ngôn ngữ Konyak); nhóm ngôn ngữ Kuki (nhóm Kuki-Naga cộng với tiếng Karbi, tiếng Meiteitiếng Mru); và nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến (có lẽ có cả tiếng Nung và tiếng Taron).[3]

Matisoff (1978, 2003) phần lớn theo sơ đồ của Benedict, nhấn mạnh giá trị mục đích luận của việc xác định các đặc điểm liên quan so với việc lập sơ đồ cây ngôn ngữ chi tiết trong nghiên cứu về ngữ tộc Tạng-Miếnngữ hệ Hán-Tạng. Matisoff đưa nhóm ngôn ngữ Bod (ngữ chi Tạng) và Tây Himalaya với tiếng Lepcha là một nhánh thứ ba. Ông hợp nhất những ngôn ngữ này ở cấp độ cao hơn với nhóm ngôn ngữ Mahakiranti như là nhóm ngôn ngữ Himalaya.[4][5]

Van Driem (2001) cho rằng nhóm ngôn ngữ Bod, nhóm ngôn ngữ Tây Himalaya và nhóm ngôn ngữ Tamang (chứ không phải các nhóm khác theo Benedict) dường như có nguồn gốc chung.[6]

Bradley (1997) có cách tiếp cận tương tự nhưng lại diễn đạt mọi thứ khác biệt: ông kết hợp nhóm ngôn ngữ Tây Himalaya và Tamang là các nhánh trong "tổ Bod", theo cách đó nó là gần trùng khít với nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur. Nhóm này và nhóm Himalaya của ông tạo thành ngữ tộc Bod của ông.[7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Bodic”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
  2. ^ Thurgood, Graham; LaPolla, Randy J. (biên tập) (2003). Sino-Tibetan Languages. London: Routledge. ISBN 0-7007-1129-5.
  3. ^ Benedict, Paul K. (1972). Sino-Tibetan: a Conspectus. Princeton-Cambridge Studies in Chinese Linguistics. 2. CUP Archive. tr. 4–11.
  4. ^ Matisoff, James A. (1978). Variational semantics in Tibeto-Burman: The "Organic" Approach to Linguistic Comparison. Occasional papers, Wolfenden Society on Tibeto-Burman Linguistics. 6. Institute for the Study of Human Issues. ISBN 0-915980-85-1.
  5. ^ Matisoff, James A. (2003). Handbook of Proto-Tibeto-Burman: System and Philosophy of Sino-Tibetan Reconstruction. University of California Publications in Linguistics. 135. University of California Press. tr. 1–9. ISBN 0-520-09843-9.
  6. ^ van Driem, George (2001). Languages of the Himalayas: an Ethnolinguistic Handbook of the Greater Himalayan Region: Containing an Introduction to the Symbiotic Theory of Language. Handbuch der Orientalistik. Zweite Abteilung, Indien. 10. Brill Publishers. ISBN 90-04-10390-2.
  7. ^ Bradley, David (1997). Tibeto-Burman Languages of the Himalayas. Occasional Papers in South-East Asian linguistics. Dept. of Linguistics, Research School of Pacific and Asian Studies, Australian National University. ISBN 0-85883-456-1.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bradley, David (2002). "The subgrouping of Tibeto-Burman". In Christopher I. Beckwith (ed.). Medieval Tibeto-Burman languages: proceedings of a symposium held in Leiden, ngày 26 tháng 6 năm 2000, at the 9th Seminar of the International Association of Tibetan Studies. Brill's Tibetan studies library. 1. BRILL. pp. 73–112. ISBN 978-90-04-12424-0.
  • Hale, Austin (1982). “Review of Research”. Research on Tibeto-Burman languages. Trends in Linguistics. 14. Walter de Gruyter. tr. 30–49 passim. ISBN 978-90-279-3379-9.
  • Singh, Rajendra (2009). Annual Review of South Asian Languages and Linguistics: 2009. Trends in Linguistics, Studies and Monographs. 222. Walter de Gruyter. tr. 154–161. ISBN 978-3-11-022559-4.

Bản mẫu:Ngữ hệ Hán-Tạng

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Review phim “Hôn lễ của em”
Review phim “Hôn lễ của em”
Trai lụy tình cuối cùng lại trắng tay! Trà xanh mới là người lí trí nhất!
Tổng hợp các lãnh địa được sử dụng trong Jujutsu Kaisen
Tổng hợp các lãnh địa được sử dụng trong Jujutsu Kaisen
Bành trướng lãnh địa được xác nhận khi người thi triển hô "Bành trướng lãnh địa" những cá nhân không làm vậy đều sẽ được coi là "Giản dị lãnh địa"
Cung thuật Tengu - Genshin Impact
Cung thuật Tengu - Genshin Impact
Kujou Sara sử dụng Cung thuật Tengu, một kĩ năng xạ thuật chết chóc nổi tiếng của Tengu.
Xianyun – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xianyun – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xianyun là nhân vật 5 sao thứ 2 sau Shenhe có chỉ số đột phá là att, và cũng không bất ngờ bởi vai trò của bà cũng giống với Shenhe.