Nhóm ngôn ngữ Tạng
| |
---|---|
Nhóm ngôn ngữ Bod Trung | |
Sắc tộc | Người Tạng |
Phân bố địa lý | Trung Quốc (Tây Tạng, Thanh Hải, Tứ Xuyên, Cam Túc, Vân Nam); Ấn Độ (Ladakh, Sikkim); Pakistan (Baltistan); Nepal; Bhutan |
Phân loại ngôn ngữ học | Hán-Tạng
|
Tiền ngôn ngữ | Tiếng Tạng cổ Tiếng Tạng cổ điển |
Ngữ ngành con |
|
Glottolog: | oldm1245[1] |
Những tỉnh lịch sử của Tây Tạng |
Nhóm ngôn ngữ Tạng (chữ Tạng: བོད་སྐད།) là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng, bắt nguồn từ tiếng Tạng cổ, hiện diện trên một vùng rộng lớn giáp với tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cao nguyên Thanh Tạng cũng như vùng núi Himalaya ở Baltistan, Ladakh, Nepal, Sikkim, Bhutan và Arunachal Pradesh. Tiếng Tạng cổ điển là ngôn ngữ văn học chính trong vùng.
Tiếng Trung Tạng (tại Ü-Tsang, gồm Lhasa), tiếng Tạng Kham, và tiếng Tạng Amdo thường được xem là "phương ngữ" của một ngôn ngữ duy nhất, một phần là vì chúng có chung một nền văn học, còn tiếng Dzongkha, tiếng Sikkim, tiếng Sherpa, và tiếng Ladakh thường được nhìn nhận là những ngôn ngữ riêng biệt.
Các ngôn ngữ Tạng là ngôn ngữ của hơn 6 triệu người.[2] Với sự lan rộng của Phật giáo Tây Tạng, ngôn ngữ Tạng được phổ biến ở nhiều nơi và hiện diện trong nhiều văn bản Phật giáo. Ngoài vùng Lhasa, tiếng Tạng Lhasa được nói bởi 200.000 người nữa-họ là người di dân đến Ấn Độ cùng vài quốc gia khác. Các ngôn ngữ Tạng là ngôn ngữ thứ nhất-thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Tây Tạng.
Tiếng Tạng cổ điển không phải ngôn ngữ thanh điệu, nhưng tiếng Trung Tạng và Tạng Kham đã phát triển một hệ thống thanh điệu. Tiếng Tạng Amdo và nhóm Ladakh-Balti không có thanh.
Tournadre (2005)[3] phân loại nhóm ngôn ngữ Tạng như sau:
Những ngôn ngữ khác (Thewo-Chone, Zhongu, Khalong, Dongwang, Gserpa, Zitsadegu, Drugchu, Baima) không có đủ thông tin để có thể phân loại chính xác.
Tournadre (2013) thêm tiếng Tseku và Khamba vào nhóm Kham, và gộp tiếng Thewo-Chone, Zhongu, Baima thành nhóm đông Tạng.
Theo Bradley,[4] nhóm ngôn ngữ Tạng có cấu tạo như sau: